TÌNH BÁO THỜI TÂY SƠN

HỒ TRUNG QUÂN

"Tình Báo", nghe ra thật đơn giản. Nhưng, tự thân nó đã toát lên cái gì đó hàm ý của sự bí mật, tác động mạnh vào tính khiến người đối diện khó kèm chế tìm biết, mặc dầu có rùng rợn bao nhiêu đi nữa... Ai đã từng chơi qua cũng phải e dè, sợ sệt, mất ăn mất ngủ, để đề phòng, cảnh giác. Vì, nghĩ rằng mình đang bị đối phương đang âm thầm rình rập, theo dõi, chờ dịp thấy được sơ hở là tấn công. Cái nguy hiểm của tình báo là quan niệm về đối phương, không hẳn chỉ dùng gán cho kẻ đối địch mà là kể cả bạn, kể cả đồng minh. Mọi hoạt động của tình báo đều mang tính đa dạng, và nhất định nó không là độc quyền khai thác riêng của bất cứ ngành nghề nào trong cuộc sống con người. Chúng ta cứ thử tìm hiểu xem công việc gì sẽ đến với các sở trinh thám tư không thôi thì hiểu ngay phạm vi hoạt động của tình báo rộng rãi đến cỡ nào. Nhiều lúc bạn tự nghĩ, trong đời mình đã mấy lần làm thám tử, và đã mấy lần làm công việc nhỏ nhất của một trưởng lưới tình báo? Ý niệm vừa rồi không có gì là mơ hồ đâu; nó chính là kết quả của công việc đã làm khi bạn muốn tìm hiểu, muốn thâu lượm bất cứ tin tức gì cần cho đời sống thường ngày của bạn. Tóm lại, để đáp ứng nhu cầu, trước nhất bạn phải biết áp dụng phương thức của ngành tình báo.

Nhìn lại lịch sử, ở bất cứ thời gian hay thời đại nào, hễ muốn chiến thắng đối phương với kết quả mong muốn, việc đầu tiên, phải vạch trước một hướng đi đó là tìm hiểu, thu lượm tin tức cần thiết đáp ứng đúng yêu cầu chiến lược khi thực hiện chiến thuật trong sách lược đã vạch định. Làm như thế, vô hình tung, đã áp dụng phương thức "tình báo" để chuẩn bị cho hành động tới.

Như thế, ngày xưa "điệp viên" đã phải hoạt động thế nào?

Trả lời câu hỏi này, những nhà nghiên cứu cứ suy luận rồi đoán mò ra mà thôi. Ai cũng cho rằng, nhất định câu: "Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng" là đầu mối cho các hoạt động tình báo! Ừ, thì cứ cho là đúng đi! Ngay như chúng ta ngày nay, các tài liệu được đưa ra dạy ở trường tình báo, mặc dầu tài liệu đó chỉ là vấn đề căn bản và sơ đẳng nhất (theo dõi, phản theo dõi, nhận diện mục tiêu) cũng không đem được ra ngoài, ghi nhớ được bao nhiêu khi nghe giảng cứ làm bấy nhiêu thôi!

"Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng" - một câu châm ngôn rất thực tế trong cuộc sống, nó thật cụ thể vì khi biết khai thác triệt để, nhất định các vấn đề sắp hành động coi như đã giải quyết trước 50%. "Tri kỷ", mình mà không biết mình thì ai biết đây! Chuyện nhận biết ngay, bằng lương tâm, bằng trí tuệ của ta về ta; nó cụ thể lắm và chắc chắn nữa... Ai mà không biết chính mình? Ðã có người, trong hành động thực hiện mục đích, luôn thay đổi và ngay chính mục đích cũng luôn thay đổi, thất bại dồn dập đưa đến, rồi từ đó cho rằng: chính mình cũng không thể hiểu mình (tri kỷ) nữa là người khác! Nói như thế, có nghĩa là bản thân họ đã mặc nhiên thừa nhận hiểu rất tường tận về họ rồi. Chuyện khó là 50% còn lại - "tri bỉ", biết chuyện người khác, chuyện bí mật của đối phương? Khó lắm, muốn hiểu được sẽ kéo theo rất nhiều phức tạp khác, cả một nghệ thuật moi tin - thu lượm tin tức, chọn lọc, phân loại... Nói rộng hơn, là tìm hiểu đối phương: đang hành động gì, với phương thức kế hoạch ra sao, v.v... và v.v... Thực hiện những việc mới nghe qua thì quá đơn giản này, chính chúng ta đang rơi vào công việc phức tạp ở nghiệp vụ tình báo!

Nước Việt Nam chúng ta, thời Tây Sơn, "Tình Báo" đã có tầm hoạt động mạnh rồi. Người xuất sắc nhất cho sách lược này với nhiều mưu mô, biết tự đặt ra chương trình hành động từ vụn vặt tẩn mẩn đến qui mô đại sự, và cuối cùng đã thành công đúng theo nội dung câu "Tri Kỷ Tri Bỉ Bách Chiến Bách Thắng" không ai hơn là vua Quang Trung! Có thể nói ông là thiên tài về mọi mặt... Dĩ nhiên, các kết quả đưa đến đều nhờ vào các điệp viên tài giỏi, nhưng dầu sao mọi dự định, cách tổ chức, cách dùng người đều phải theo đúng kế hoạch của nhà vua!

Mới vào độ tuổi 18 (Tây Sơn khởi nghĩa 1771), độ tuổi vừa chớm trưởng thành (?), Nguyễn Huệ đã là một Ðại Tướng Tây Sơn, trực tiếp cầm quân xung trận, tấn công đối phương nơi xứ lạ như vào chỗ không người. Ðàng Trong, dẹp Chúa Nguyễn, đến năm 31 tuổi đuổi quân Xiêm. Năm 33 tuổi, lăn xả vào cuộc chiến với Chúa Trịnh Ðàng Ngoài và chiến thắng dễ dàng, trả giang sơn lại cho vua Lê. Năm sau (34 tuổi) tiêu diệt phản thần Nguyễn Hữu Chỉnh. 35 tuổi, trừ khử gian thần Võ Văn Nhậm (mưu đồ chiếm Bắc Hà). Và cũng vào cuối năm đó (1788), Bắc Bình Vương lên ngôi vua, lấy hiệu Quang Trung, kéo quân ra Thăng Long tiêu diệt Tôn Sĩ Nghị, quét sạch quân xâm lược Mãn Thanh, đuổi chúng chạy như vịt trở về Tàu, không dám léo hánh xâm nhập vào bờ cõi An Nam nữa... chỉ bằng một cuộc tấn công chớp nhoáng. Năm 40 tuổi, nhà vua định vào Gia Ðịnh diệt hết lực lượng Nguyễn Ánh, rồi sau đó sẽ mở mang lãnh thổ rộng lớn về phương Bắc: buộc Mãn Thanh trả lại hai tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây thuộc đất Nam Việt (Triệu Ðà) đã bị nhà Hán thôn tính. Mọi dự định đang tiến hành rất tốt. Thì, như vận nước gặp buổi không may, nhà vua ngả bệnh rồi băng hà, để lại bao nhiêu thương tiếc cho dân tộc, bao nhiêu dang dở cho Tổ Quốc thân yêu...

Nhìn lại, mọi thành công trong suốt sự nghiệp mà vua Quang Trung đạt được, chúng ta thấy phần chính là ông ta đã biết áp dụng, thực hiện nghiệp vụ tình báo một cách như quá nhuần nhuyễn rồi.

Tư chất thông minh thiên phú, Nguyễn Huệ không phải khi vào đời mới bộc phát, mà ngay từ khi còn nhỏ, chính vị thầy (Giáo Hiến) dạy cho cậu bé Ba Thơm đã nhận biết điều đó. Dựa vào lý số, giáo Hiến biết rằng Ba Thơm sẽ là người tài giỏi bậc nhất sau này, ông ta còn nghĩ rằng tên Thơm không mấy gì cao quí, nên thay chữ "thơm" bằng chữ "huệ" - một loài hoa sang trọng tinh khiết còn có mùi vương giả, nên đổi tên từ Thơm ra Huệ là vậy.

Kể ra trong anh em Tây Sơn, không phải chỉ riêng có Nguyễn Huệ là người làm nên việc. Ðúng ra người có phong chất nhất phải nói đến anh cả Nguyễn Nhạc. Vì chính Nhạc, và có Nhạc mới dựng lên nổi cơ nghiệp nhà Tây Sơn. Từ hai bàn tay trắng, chấp nhận moị lao đao vất vả, trốn lây trốn lất khắp vùng núi An Khê, chiêu binh mãi mã chỉ bằng lời nói, bằng tình cảm riêng tư, không tiền không của, không ruộng vườn như Lê Lợi (vùng Lam Sơn), nhưng vẫn nuôi được binh... Công bình mà nói, Nguyễn Nhạc phải là người tài giỏi nhất trong anh em họ. Xuất thân là một người bình thường như những người dân bình thường khác, Nhạc không thuộc dòng dõi chúa Nguyễn, lại càng không phải giàu có như thương gia Nguyễn Thông (Qui Nhơn)! Qua truyền tụng từ dân địa phương, người ta mới biết được Nhạc thời trai tráng là một thanh niên đẹp trai, có vẻ như một "tiên phong, đạo cốt", dễ gây cảm tình với mọi người. Thêm vào vóc dáng cha mẹ tạo cho, tính Nhạc rất dễ thương, hào sảng, rộng rãi, chiều lòng mọi người và thích giúp đỡ mọi người... 

Một con người như vậy dĩ nhiên phải đến tai Chúa Nguyễn, và được chúa Nguyễn mến mộ. Truy lai lịch, chúa Nguyễn biết lai lịch của Nhạc thuộc con cháu những người mà các tiên vương mình đã cưỡng bách họ lìa bỏ quê hương để vào Nam lập nghiệp... Và rồi, thiên thời địa lợi giúp Nhạc có cơ hội ra vào cung cấm Phú Xuân... Phải chăng Nhạc đã có mưu đồ? Vì mọi cách thực hiện kế sách tương lai, mà Nhạc đã khiến cho một quận chúa đem lòng say mê hắn ta đến điên đảo! Có thể nói trước khi bắt tay vào việc - xâm nhập cung đình, Nhạc chỉ làm công việc thực hiện kế sách vạch sẵn từ trước mà thôi. Nhờ địa lợi, Nhạc cho tổ chức ngay một mạng lưới điệp viên tại cung đình; những điệp viên này chỉ cần cho Nhạc biết cá tính các thân vương quốc thích, tựu trung mỗi người trong họ ưa thích những gì... Từ đó, Nhạc đã tìm moị cách thỏa mãn ngay cho đối phương để tạo cảm tình và gây lòng tin. Những điệp viên được Nhạc xử dụng đều là những kẻ phục dịch trong cung, do đó nhất cử nhất động mọi sinh hoạt trong phủ, Nhạc nắm rõ hết. Những chuyến chuyển cá khô, mắm, muối, từ miền xuôi trở lên mạn ngược, đổi lấy trầu nguồn, cau tươi trở về. Sau khi tính xem tiền lời, thì hỡi ơi, nhận biết chả thấm vào đâu, vì Nhạc phải mua thêm những loại quí hiếm như ngãi thuốc, đồng đen, vàng vòng, thậm chí cả sừng tê, nhung nai, ngà voi để biếu xén cho chính Chúa cùng các thân vương... Nhạc lúc nào cũng chơi đẹp! Tham lam, nhũng lạm như quốc phó Trương Phúc Loan cũng bị Nhạc mua chuộc. Chiếm được cảm tình trong hoàng cung, nhận biết uy tín của mình không còn nhỏ, Nhạc chuyển thế... Thời may đến, quan trấn thành Qui Nhơn muốn được lòng quận chúa - người đẹp đang yêu Nhạc, giao cho Nhạc trông coi kho công khố!

Từ khi có được chức, Nhạc cưới quận chúa với điều kiện không một "ten" hồi môn (thực ra nhà chúa cũng chẳng có tiền của gì, vì bao nhiêu đều được sung hết về kho của quốc phó Trương Phúc Loan (cậu ruột của Chúa Ðịnh Vương Nguyễn Phúc Thuần đương vị). Cái an ủi và vui cho Nhạc là từ ngày cưới được quận chúa, quyền hành của Nhạc rộng lớn hơn, công việc suông sẻ nhiều, dễ dàng ăn nên làm ra...

Có tiền, có thế, có chủ đích, Nhạc nhất định vùng vẫy một phen... Ngoài mặt, nhìn vào, ai cũng tưởng Nhạc chỉ là kẻ ăn chơi cờ bạc, trác táng, học đòi quí tộc, nhưng thực ra bên trong thâm tâm của Nhạc đã có chủ đích - thu phục tay chân bộ hạ, nghĩa là tuyển điệp viên dùng trong giai đoạn hiện tại cho riêng mình. Nhạc đã tổ chức những canh bạc thâu đêm suốt sáng quyết gài con mồi vào tròng. Chuyện cờ bạc tất nhiên có ăn có thua, nhưng Nhạc chọn cách cần phải thua nhiều hơn ăn! Còn những con bạc bị thua muốn gỡ gạc, Nhạc cho họ vay. Chuyện cho vay, Nhạc không chỉ dành riêng cho "con mồi" của mình mà cho tất cả mọi người cần... Hôm nào được cuộc, người vay trả lại cho Nhạc cả vốn lẫn lời, nhưng cũng có người như chần chừ, thấy vậy Nhạc lên tiếng mở lời trước:

- Nếu thích thì cứ để mà xài, anh em mà, có là bao, biết đâu chừng sau này... tiên sinh còn giúp ta nhiều gấp mấy lần.

Ðối với các con nợ cháy túi, Nhạc vỗ vai thông cảm:

- Không gì đâu, đừng lo lắng, có thì trả, không có thì thôi, bộ tôi đây không biết quí mến tiên sinh hơn cái của phù vân hay sao?

Nhạc nghĩ rằng, chính những người được mình thi ân (những người có máu cờ bạc) sẽ được việc cho mình sau này, vì hầu hết dân giang hồ mà lâm vào bệnh "ghiền đỏ đen" nhất định họ phải có đầu óc nhiều mưu mô, thông minh gấp bội người bình thường (ngay từ hồi ấy, Nhạc đã khá rành về cách nghiên cứu phân tích tâm lý, bản chất, từng loại người trong xã hội)! Và kết quả, loại cảm tình viên này đã không ngần ngại cho Nhạc biết tất cả mọi tình hình từ Ðàng Ngoài cho đến Ðàng Trong, từ vùng xuôi lên mạn ngược, từ cung đình tới dân gian... Về sau, đổ bể chuyện "công khố Qui Nhơn" trống rỗng, Nhạc nhận tội một mình, không thêm thắt cho ai, trốn lên vùng núi sống chung với dân các bản làng người Thượng rừng núi An Khê, trong sự cung kính, giúp đỡ và mến mộ...

Cuộc sống của Nhạc không phải tự dưng đến được, mà là do nhờ sự đầu tư chữ "nghĩa" trong Nho Giáo. Tổ chức mạng lưới tình báo của ông ta tuy không mấy rõ ràng nhưng rộng khắp. "Gia bần tri hiếu tử, Quốc loạn thị tôi trung"! (nhà nghèo mới biết được đứa con nào là hiếu thảo; làm vua đến lúc nguy khốn có người giúp đỡ mới có thể xác nhận người đó là tôi trung), Nhạc nhận rõ điều này trong hoàn cảnh khốn đốn. Tất cả đối với Nhạc đều trung nghĩa, không có nịnh mà cũng không phản! Chỉ biết đền đáp ơn Nhạc hết mình, trong đó phải nói ngay đến những người đang làm việc tại cung đình nhà Chúa (báo tin cho Nhạc phải đào tẩu gấp).

Sau ngày chiếm được thành Qui Nhơn, Nhạc giao lại cho các em công việc binh bị, để lên ngôi Hoàng Ðế (Trung Ương Hoàng Ðế). Ðến lúc này, Trung Ương Hoàng Ðế, không phải nghĩ đến chuyện tình thế Ðàng Ngoài, Ðàng Trong, mà xoay tất cả các điệp viên, cảm tình viên của mình, gài vào hoạt động ngay trong nội dinh của hai em (Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ). Nguyễn Huệ biết được, đã biến các "điệp viên" của vua anh trở thành các "nhị trùng viên", rồi từ "nhị trùng viên" biến họ trở thành "điệp viên" riêng của mình khiến Nhạc không hề hay biết.

"Gậy ông  đập lưng ông"! Chuyện rõ ràng nhất rơi vào vai trò của Võ Văn Nhậm - con rể Nhạc, làm đại tướng dưới trướng của Huệ, là đầu não cơ quan "tình báo" (cả tổ chức gián điệp và phản gián) do Nhạc đặt bên cạnh Huệ. Tiếc rằng, Nhạc đã quá nhiều suy diễn từ bản chất của một anh chàng có máu cờ bạc, để áp dụng ngay vào chính trường, nên về sau chuốc lấy thất bại... Ai mà không biết, đã là người cờ bạc, nhất định phải tính chuyện "được", không dại gì tính chuyện "thua"! Do đó, sau khi chiếm vùng đất từ Qui Nhơn trở vào, Nhạc lấy làm thỏa mãn, vì được làm Trung Ương Hoàng Ðế của phần đất nhỏ phía nam, thế là đủ lắm rồi; tuy nhỏ vẫn chắc ăn hơn, nếu mạo hiểm trút hết túi, đặt canh bạc lớn, rủi ro "thua" thì phải hết sạch! Do đó, từ giai đoạn này trở đi, mọi việc bên ngoài, một mình Nguyễn Huệ thường hay lén anh, tự quyết định. Nhậm thường cho người cấp báo về các hành động tự quyền của Huệ, Nhạc bất bình rất nhiều, và từ đó mầm mống chia rẽ giữa hai anh em không thể hàn gắn được...

Trở về lại với thiên tài Nguyễn Huệ. Là người thống soái binh đội Tây Sơn, Huệ phải đối phó với nhiều việc. Chuyện võ nghiệp, làm trai không thể không gánh vác, Một mình, Huệ âm thầm thực hiện những chuyện cần làm. Tuổi của Huệ chỉ xấp xỉ với tuổi con gái đầu của Nhạc, do đó, người sống sau cùng với bà Nguyễn Thị Ðồng (mẹ của 3 anh em Tây Sơn), phải là Huệ. Chính cái tập tục sống đúng kiểu Việt Nam này, là sợi giây vô hình, buộc chặt tình thân thuộc với nhau, nếu ai đó tìm cách thoát khỏi, bị lãnh ngay bản án: kẻ bất hiếu, bất nghĩa, bất trung, do người đời ban tặng.

Binh đội Tây Sơn ngày một mạnh lên, Huệ không thể ở cạnh mãi bên mẹ, thân chinh chiến rày đây mai đó, ai có thể phụng dưỡng mẹ già? Anh cả đang gánh vác việc xã tắc. Thôi thì cưới vợ, Huệ nghĩ rằng người vợ trẻ, chưa có gì để bận bịu, lo cho mẹ chồng là thích hợp nhất. Nói là làm, Huệ cưới vợ lần đầu [có sách cho rằng người vợ đầu này là người con gái đẹp nhất trong số các người con gái của thương gia Nguyễn Thông (?)]. Những năm đầu, chuyện xa nhà, xa vợ con đối với Huệ chỉ tối đa vài ba tháng thôi, đó là trong những trận đánh lớn, còn chuyện tiểu trừ loạn lạc, Huệ thường giao lại cho thuộc tướng tin cẩn. Một năm trôi qua, vợ Huệ đã sinh cho Huệ một trai đầu lòng kháu khỉnh. Nhìn thấy nét mặt hiền dịu, thùy mị của vợ, Huệ cảm kích mà đặt tên cho con: Nguyễn Quang Thùy.

Chiến trường Gia Ðịnh bùng nổ lại, Huệ nhất định đích thân thân chinh. Lửa tình đang độ ngun ngút, Huệ định đem vợ con theo. Việc này bị Nhạc phản đối với lý do: không ai săn sóc mẹ già bằng "cô dâu út"! Nếu chỉ có thế, thì Huệ không phải nhượng bộ. Nhưng rồi cuối cùng, Huệ phải thúc thủ chấp hành - lệnh của mẹ mình. Sau khi thắng trận trở về, Huệ mới biết được từ các điệp viên (nói hài hước theo ngôn ngữ hôm nay là "antenne") báo lại: "Một hình thức giữ con tin, chiếm người, nhằm kèm chế Huệ".

Những tháng dài, Huệ đang chinh chiến tại chiến trường Gia Ðịnh, Nhạc đưa mẹ và vợ con Huệ vào hết nội cung, gọi là giúp Huệ rảnh tay, an tâm lo việc quân bị ngoài biên ải. Chính chuyện làm không mấy rõ ràng, nhiều mờ ám đã gây nhiều tai tiếng lăng nhăng giữa Nhạc và vợ Huệ (mẹ của Nguyễn Quang Thùy), khiến về sau Huệ phải bỏ vợ... Cho đến khi, Huệ cưới em gái của Phó Quốc Lân (Bà Họ Phạm), thì cuộc vợ chồng với người vợ đầu tiên chấm dứt. Chuyện này trong cung đình ngày xưa không thể không có, tội nhất cho số phận của người đàn bà mà thôi! Thử hỏi có ai dám chống lại lệnh vua? Nhất định mẹ của Nguyễn Quang Thùy trong trường hợp này đành biết xuôi theo số mệnh, và dĩ nhiên càng không dám chống đối... Tội khi quân nặng gấp mấy trăm lần hơn, thà để thân xác, lương tâm bị giày vò, còn hơn cả tam tộc, cửu tộc bị tru di!

Cuối năm 1788, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Ðế, người con cả Nguyễn Quang Thùy vẫn không được lập ở ngôi Thái Tử! Ngôi vị này phải nhường lại cho em là Nguyễn Quang Toản - con trưởng của bà Chánh Cung Hoàng Hậu họ Phạm.

Có thể nói trong anh em, Nguyễn Huệ là người gặp nhiều thua thiệt. Nhưng trên chiến trường, Nguyễn Huệ lại là ngôi sao sáng chói nhất, không phải chỉ dành riêng cho anh em Tây Sơn, mà là niềm vinh dự, hãnh diện chung cho cả dân tộc Việt Nam kể trong gần năm ngàn năm nay.

Những lúc trà dư tửu hậu, bàn luận binh pháp với các thuộc tướng, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ thường nói:"Quân lính cốt hòa thuận chứ không cốt đông, cốt tinh nhuệ chứ không cốt nhiều...".

Có được quan niệm về tổ chức quân đội như thế này, nó đã mang ý nghĩa thật cao thâm, là một cách mở cho một chuỗi suy luận tiếp theo... nghĩa là dồn sức vào cuộc chiến bằng mưu lược, bằng cân não chăng? Các chiến thuật gia thời trung cổ cũng đã từng nói "Dùng gậy ông, đập lưng ông" nhất định tốt hơn! Như vậy, vấn đề quan trọng ở đây, là cần biết "gậy ông" đang được cất giấu ở đâu, và nếu có xử dụng thì xử dụng như thế nào, để thừa cơ hội cắp lấy?

Thời An Dương Vương, chuyện tình Trọng Thỉ - Mỵ Châu, có phải là hình thức "gậy ông" (nõ thần) bị điệp viên Trọng Thỉ (con trai Triệu Ðà) đánh cắp đó sao? Nếu nghiệm xa hơn, cái hay hơn nữa trong chuyện này là tính tuyệt vời của nó. Triệu Ðà không thèm chơi lối cũ xưa như Việt Vương Câu Tiễn gài mỹ nhân Tây Thi cho Ngô Vương Phù Sai, chờ khi Ngô Vương lâm trận say sưa, mê man cuộc tình... quên hết sơn hà xã tắc, Câu Tiễn mới đem quân chiếm Ngô. Sau này, đời nhà Hán, Vương Tư Ðồ cũng dùng Ðiêu Thuyền làm kế "mỹ nhân" dụ Ðổng Trác (vụ Phụng Nghi Ðình) để dẹp bỏ được lão khốn này. Vua Thục Phán chúng ta, bị mắc vào cái bẫy khác. Chết vì thương con! Mất nước vì tin con!

Triệu Ðà biết rành từng hành động của Thục Phán nhờ điệp viên Trọng Thỉ. Chiêu thức lần này xuất ra không phải "mỹ nhân" mà ngược lại - "mỹ nam nhân"... Chàng Sở Khanh Trọng Thỉ hết sức xuất sắc với vai trò một điệp viên chính hiệu!

Triệu Ðà, một quan úy quận Nam Hải, kế tiếp Nhâm Ngao (lúc đó đất này còn thuộc về Nhà Tần) đã dùng con trai mình làm "mỹ nam nhân" để giả vầy duyên với nàng công chúa Mỵ Châu con gái vua Âu Lạc. Thương con, Thục Phán chấp nhận. Không ngờ chàng rể lại là một điệp viên thượng thặng thuộc tầm cỡ quốc tế của ngày hôm nay.

Là một anh hùng như Nguyễn Huệ, chuyện "mỹ nhân" nhất định không thoát khỏi, bước chân chinh chiến đến đâu, có thêm vợ đến đó, chưa kể chuyện nàng hầu... Có điều, cho đến ngày nay, chúng ta vẫn cảm phục vị vua này, vì người đẹp cỡ nào đi nữa cũng khó lung lạc được ngài, ngay cả nhân vật tuyệt vời như Công Chúa Ngọc Hân cũng đành chấp nhận câu: "mỹ nhân lụy vì anh hùng"!

Từ khi mới cầm quân cho đến khi đuổi sạch đại quân Mãn Thanh, Nguyễn Huệ luôn đương đầu với những lực lượng mà quân số tác chiến nhà nghề của đối phương luôn gấp đôi! Kết quả sau khi xung trận, binh đội của Nguyễn Huệ bao giờ cũng chiến thắng. Có được như vậy, là nhờ ông ta như đang làm chủ trước mọi tình hình trên chiến trường. Câu hỏi đặt ra là tại sao Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, bằng tài cán nào, mánh mung gì mà biết được địch tình khi chưa tấn công đối phương? Ðây chính là công lao của "đội ngũ điệp viên" tài giỏi, nhanh nhẹn, gan dạ, biết cách xâm nhập sâu vào lòng địch, thâu thập tin tức chính xác... Dĩ nhiên, khi phân loại để điều nghiên, bộ tham mưu trung ương của Nguyễn Huệ phải hiểu rõ kẻ địch sắp làm gì, và chính ông ta sẽ phải làm gì.

Sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Gia Văn Phái có viết khi hội quân tại Tam Ðiệp, vua Quang Trung tuyên bố:"Lần này ta ra trận hành quân, phương lược tiến đánh đã có sẵn, chẳng qua mười ngày là đuổi được quân Thanh".

Sách Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện, quyển 30, trang 33a, 34a viết:"Vào một ngày cuối tháng Chạp năm 1788, vua Quang Trung cho quân sĩ ăn tết trước rồi tuyên bố: Ðợi sang Xuân ngày mồng 7 vào Thăng Long sẽ mở tiệc lớn, các ngươi hãy nhớ lấy lời ta, xem ta nói có sai không? Không hề sai đấy!

Ðêm 30 Tết, vua Quang Trung cho mở đầu chiến dịch đánh vào Gián Khẩu, để tiêu diệt thật gọn, thật gấp lực lượng thám báo tại đây. Quân tình báo nhà Thanh bị đánh úp bất ngờ, không kịp trở tay và bị nghĩa quân Tây Sơn bắt gọn, giết sạch, làm cháy hẳn, dứt tuyệt đường giây hoạt động do mạng lưới điệp báo Mãn Thanh bung ra. Vua Quang Trung rất coi trọng mặt trận tình báo của cả đối phương lẫn mình, nếu diệt gọn được quân báo của địch trước, thì phần thắng sẽ nắm trong tay. Nhờ vào cách tổ chức tốt công tác tình báo mà nhà vua đã đoán ra chính xác ngày thắng trận... Như chúng ta đã biết binh lính của Tây Sơn có nhiều người gốc Trung Hoa, nên việc cho gài điêp viên vào hàng ngũ quân Thanh nắm tình hình và xúi giục binh lính Thanh coi thường, không cần cảnh giác với Tây Sơn, chuyện làm không mấy khó khăn. Ðội điệp viên này đã báo về cho Quang Trung biết như sau: "Sang Xuân, ngày mồng 6 tháng Giêng, quân Thanh từ Thăng Long sẽ đánh vào Phú Xuân". Biết chắc, chuyện này sẽ xảy ra, vua Quang Trung ra lệnh hành động trước: Phải chận đánh quân Thanh ngay tại chiến trường mà đối phương không thể ngờ, đó là chiến trường do chính mình ấn định, không thể đánh vào chiến trường do đối phương bày sẵn chờ mình.

Việc thắng trận vào đầu Xuân Kỷ Dậu sớm hơn dự định của vua Quang Trung 2 ngày, và sớm hơn dự định của quân Thanh tấn công vào Phú Xuân 1 ngày. Vì theo như tin hồi báo của đội ngũ điệp viên, thì: "Quân Thanh sẽ chia làm hai mũi, một do Bộ Binh từ Thăng Long kéo thẳng vào, một do Thủy Binh từ Trung Hoa theo đường biển tiến sang chiếm cửa Thuận An đánh thốc lên. Việc thứ hai là các vị trí bố phòng, trú quân của quân Thanh trong thành Thăng Long cũng như những vùng lân cận đã có bản đồ ghi chú chỉ dẫn rõ...". Vua Quang Trung cho chuẩn bị thật chu đáo việc phòng thủ tại Phú Xuân, riêng phần mình kéo đại quân tiến ra Bắc, nhất định, phải sống mái với bọn Mãn Thanh tại Thăng Long một phen. Và lại nữa, nhất định không để cho đối phương thực hiện kế hoạch đã dự định, mà buộc đối phải bàng hoàn chống trả kế hoạch thần tốc của mình. Một đòn cân não làm đối phương hoảng hốt, ngỡ ngàng, tạo cho hàng ngũ đối phương bấn loạn vì tinh thần binh sĩ giao động, lo âu... 

Nửa đêm mồng 3 Tết (28/1/1789), nhà vua cho binh sĩ bí mật, bất ngờ vây chặt đồn Hạ Hồi cách Thăng Long 30km. Quân Thanh trong đồn hoàn toàn bị động vì quá bất ngờ, đâm ra rối loạn hàng ngũ, tên nào cũng mong tìm đường chạy thoát thân, không còn dám nghĩ đến việc chống trả. Vua Quang Trung dùng loa gọi bọn chúng đầu hàng, nghe tiếng ông binh sĩ dạ vang như sấm phụ họa thêm uy lực, một chiến thuật tâm lý hữu hiệu, làm cho quân địch đã hoang mang lại càng hoang mang hơn, cộng thêm vào đó là việc tác động tuyên truyền do các điệp viên được gài từ trước, khiến nỗi sợ hãi kinh khiếp của binh sĩ đối phương tăng gấp bội, nên, kết quả đồng loạt bọn họ xin ra hàng. Tất nhiên tiếng xin hàng lớn nhất và mau miệng nhất có lẽ được phát ra từ miệng những điệp viên của đội ngũ tình báo Tây Sơn. Ðồn Hạ Hồi chỉ trong chốc lát nằm gọn trong tay nghĩa quân Tây Sơn, không hao một viên đạn, không tốn một giọt máu... Hăng say chiến thắng, nhà vua ra lệnh tấn công tiếp vào đồn Ngọc Hồi (cách Thăng Long 14 km). Tại đây lực lượng phòng vệ của quân Thanh thật kiên cố, vua Quang Trung thay đổi chiến thuật, cho đồng loạt ồ ạt, dữ dội công thành với sự hỗ trợ tối đa của dân chúng địa phương như dùng ván bện rơm (được gọi là phiến giáp) trang bị cho những đạo quân tinh nhuệ làm mộc đỡ tên đạn, lúc tiến sát được vào dưới chân thành, thì những phiến giáp này trở thành những chiếc thang leo dùng cho những đội cảm tử nhảy vào phá thành. Lực lượng Tượng binh có gắn đại bác xạ kích thẳng vào thành, kết hợp chặt chẽ với các lực lượng khác, trong đó chủ yếu là nhiều đội cảm tử đồng loạt nhất tề xông lên, quyết chí hạ cho kỳ được thành Ngọc Hồi. Trước chiến thuật tài tình và thần tốc như thế này, Tôn Sĩ Nghị quá kinh hoàng chỉ còn có thể thốt lên: "Sao mà thần đến thế!", rồi cố sức tìm đường trốn chạy không kịp mang theo ấn tín.

Tất cả các trận đại thắng theo kiểu này, phải chăng vua Quang Trung đã tốn nhiều công sức cho việc huấn luyện một đội ngũ tình báo hết sức trung thành với mình? Tiếc rằng ngày nay chúng ta vẫn chưa tìm ra những tài liệu về cách thức đã huấn luyện cho tổ chức tình báo của ông ta như thế nào, chỉ biết rằng, tình nghĩa huynh đệ chi binh của ông ta khác với nguời anh cả. Ông thường dùng lòng thành thật đối với thuộc cấp, thưởng phạt công minh, có tội thì trị, có công phải thưởng. Cách sống theo đúng bản chất kẻ giang hồ mã thượng dễ thu phục lòng người, hơn là những kẻ mưu mô bá đạo. Tình báo thời đại Tây Sơn, những câu chuyện giả sử dựa vào lịch sử, còn rất dài, xin bạn đọc cứ thư thả, rồi đây trong các số báo tới, người viết xin được viết tiếp! Trong thâm tâm tôi, lúc nào cũng nghĩ rằng: "là nòi tình nên phải biết thương người đồng điệu!" âu cũng là việc thường tình.

HỒ TRUNG QUÂN