DANH TƯỚNG NHÀ TÂY SƠN
VÕ VĂN DŨNG
PHẠM ÐÌNH TÒNG
QUANG TRUNG NGUYỄN HUỆ là đấng anh hùng kiệt xuất, uy danh lừng lẫy, một Thống soái tài ba, một nhà quân sự với nghệ thuật điều binh khiển tướng tuyệt vời. Nhà Tây Sơn đã làm nên nghiệp cả với nhân tố quan trọng bậc nhất là Quang Trung Nguyễn Huệ.
Người xưa có nói "Minh Quân, lương tể tao phùng dị", hễ có "minh quân" ắt có "lương tể". Trong ý nghĩa đó, chúng ta có thể nói, hễ có một Thống soái tài ba thì dưới trướng ắt có những tướng lãnh tài giỏi. Nhà Tây Sơn lúc dựng cờ khởi nghĩa cũng như về sau đã được nhiều anh hùng nghĩa sĩ phò tá. Có người đã hy sinh cho đại cuộc một cách vẻ vang. Có người đã đi suốt cuộc chiến, tồn tại và phải mai danh ẩn tích sau khi nhà Tây Sơn bị suy vong. Trong số đó có danh tướng VỖ VĂN DŨNG, một Ðại Tư Mã, giỏi cả bộ chiến lẫn thủy chiến
Võ Văn Dũng người thôn Phú Phong, huyện Tuy Viễn (trước 1975 là thôn Phú Mỹ, xã Bình Phú, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Ðịnh). Nhà giàu, rước thầy về dạy học văn - võ từ nhỏ đến lớn. Văn không mấy tấn tới, còn võ thì rất phát, phải đổi thầy nhiều lần.
Ðến 20 tuổi, theo người buôn ngựa vào Phú Yên, duyên may gặp được lão trượng họ Lương ở Tuy Hoà, dạy cho môn trường kiếm và môn đoản đao, dạy cách đánh trên đất, cách đánh trên ngựa, lúc dùng một, lúc dùng cả hai môn binh khí đao kiếm. Về nhà tự rèn luyện ngót năm năm trời mới hoàn toàn thành thục. Theo lời Thầy dặn, Võ dấu kín võ công, ngoài bạn tâm giao là Nguyễn Nhạc, không ai biết Võ Văn Dũng thuộc hàng cao thủ.
Võ Văn Dũng đã tham gia lực lượng khởi nghĩa của ba anh em Tây Sơn ngay từ buồi ban đầu, thuộc nhóm quân sự gồm có Nguyễn Huệ, Trần Quang Diệu, Võ Ðình Tú. Lực lượng Tây Sơn xuất phát từ mật khu đèo An Khê. Ðạo quân do Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc thống lĩnh, kéo xuống hướng đông, tiến chiếm lỵ sở huyện Tuy Viễn, rồi kéo đại bình đánh thành Qui Nhơn (tức Ðồ Bàn cũ). Ðạo quân thứ hai do Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng chỉ huy theo đường núi ra hướng bắc. Ðược tin Tuy Viễn đã vào tay nghĩa quân rồi, Trần Quang Diệu giao cho Võ Văn Dũng kéo một đạo binh đánh huyện lỵ Bồng Sơn, còn Trần Quang Diệu chỉ huy một đạo binh đánh huyện lỵ Phù Ly. Võ Văn Dũng ở lại trấn giữ hai huyện vừa chiếm được, còn Trần Quang Diệu đem quân hợp với Tây Sơn vương đánh thành Qui Nhơn. Từ đó, Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu phục vụ dưới trướng của Ðại Tổng quản Nguyễn Huệ, lập nhiều chiến công hiển hách.
Ðầu năm 1785, vua Thái Ðức Nguyễn Nhạc lệnh cho Nguyễn Huệ, Võ Văn Dũng, Trần Quang Dũng, Bùi Thị Xuân... cùng bộ tướng đem thủy lục đại binh vào Nam tảo trừ quân Xiêm La xâm lược do Nguyễn Phúc Ánh rước sang. Nguyễn Huệ (tước vị Long Nhưỡng tướng quân) và Võ Văn Dũng chỉ huy thủy binh, còn bộ binh giao cho Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân điều khiển.
Mọi sự đã thưc hiện, bốt trí chu tất theo kế hoạch hành quân tiêu diệt địch trên khúc sông Rạch Gầm - Xoài Mút (Mỹ Tho), Nguyễn Huệ cho Võ Văn Dũng kéo quân tiên phong đi khiêu chiến, giả thua để dụ địch quân lọt vào trận địa mai phục của đại binh do Long Nhưỡng tướng quân Nguyễn Huệ chỉ huy tác chiến. Quân địch đã bị tiêu diệt hoàn toàn: ba trăm chiến thuyền cháy ngùn ngụt, khói đen kín cả bầu trời, lớp tan vỡ chìm sâu trong dòng sông, không có chiếc nào chạy thoát. Từ đó quân Xiêm không còn dám nuôi ý định xâm lăng nước ta nữa.
Khi vua Quang Trung mang đại quân ra Thăng Long đại phá quân Thanh xâm lược, cũng như sau khi nhà vua băng hà (1792), thì Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân lo việc trấn thủ kinh đô Phú Xuân và đạo Quảng Nam. Năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Phúc Ánh cử binh ra đánh thành Qui Nhơn. Binh Phú Xuân (Tây Sơn) do Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng chỉ huy định kéo vào giải vây cho Qui Nhơn, nhưng đến Quảng Ngãi thì bị tăng binh của Tống Viết Phước ngăn chận không vào cứu viện được, do đó thành Qui Nhơn bị mất.
Năm sau (1800), Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng và Nguyễn Văn Lộc kéo quân vào đánh lấy lại thành Qui Nhơn. Võ Tánh và Ngô Tùng Châu tuẫn tiết.
Năm Tân Dậu (1801), đợi mùa gió nam thổi, Nguyễn Phúc Ánh sai chế tạo chiến cụ hỏa công rồi cử Lê Văn Duyệt, Võ Di Nguy, Nguyễn Văn Trương đem đại binh ra đánh Thị Nại (cửa Qui Nhơn). Võ Văn Dũng chỉ huy thủy binh đánh nhau nhiều trận dữ dội với thủy binh Nguyễn Phúc Ánh. Tướng nhà Nguyễn là Nguyễn Văn Trương cho gián điệp trà trộn vào quân Tây Sơn lấy được mật khẩu, rồi đang đêm cỡi thuyền nhỏ xâm nhập đốt thủy trại của Tây Sơn. Võ Văn Dũng thấy lửa cháy ở hậu cứ vội chia binh cứu ứng. Võ Di Nguy thừa cơ dùng thuyền nhẹ lướt vào lòng địch, bị súng của quân Tây sơn trên đồi Gành Ráng bắn xuống trúng đạn chết. Lê Văn Duyệt liều mạng thúc binh tiến lên rồi nổi hỏa công, lửa theo gió tạt vào thuyền Tây Sơn. Võ Văn Dũng chống không nổi phải bỏ Thị Nại kéo tàn quân lên bờ, hợp cùng Trần Quang Diệu giữ những nơi hiểm yếu khác.
Hai bên còn đánh nhau nhiều trận dữ dội ở ngoài thành Qui Nhơn, thế bất phân thắng bại. Chợt Trần Quang Diệu được tin quân Tây Sơn bị thua ở Nhật Lệ, Trấn Ninh và Nguyễn Phúc Ánh đã hoàn toàn làm chủ đất Thuận Hoá thì thất kinh, bàn cùng các tướng bỏ thành Qui Nhơn, đem đại binh ra Bắc cứu ứng.
Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng đem 3000 quân, 80 thớt voi theo đường thượng đạo sang Lào để ra Nghệ An, và đến nơi vào thượng tuần tháng 3 năm Nhâm Tuất (1802). Ðường đi khó khăn, bị sơn lam chướng khí, rắn độc thú dữ, lại còn bị bọn thổ ty theo nhà Nguyễn đột kích dọc đường..., đoàn tùy tùng của Trần Quang Diệu hao hụt dần, mười phần chỉ còn ba bốn. Ðoàn tượng binh chỉ còn mươi thớt. Tướng sĩ hầu hết bị sốt rét rừng, Trần Quang Diệu bị phù thũng, đi đứng khó khăn nên khi đến Hương Sơn bị tướng nhà Nguyễn là Võ Doãn Văn, Lê Ðức Ðịnh dẫn man binh đến đánh bất thình lình, quân sĩ bị giết sạch. Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng cùng các bộ tướng đều bị bắt.
Ở Diễn Châu, nữ tướng Bùi Thị Xuân hay tin liền đem nữ binh đi giải cứu. Quân Nguyễn quá đông, quân Tây Sơn dần dần yếu thế, các tùy tướng lớp bị chết, lớp bị bắt trở lại, chỉ có Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng thoát khỏi. Dù vậy, Trần Quang Diệu kiệt sức đi không nổi nữa, nữ tướng phải lo bảo vệ chồng, không chống cự được nên cả hai vợ chồng đều bị sa cơ. Một mình Võ Văn Dũng thoát được, nhưng chạy ra đến Nông Cống (Thanh Hoá) bị bọn Lê Văn Pháp, Phạm Ngọc Thụy kéo dân địa phương ra bao vây, không chống nổi nên bị bắt trở lại.
Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân và Võ Văn Dũng đều bị đóng cũi giải về Nghệ An nạp cho Nguyễn Phúc Ánh. Dọc đường, Võ Văn Dũng phá cũi thoát thân.
Sau khi thoát nạn, Võ Văn Dũng trở về Phú Phong (đất Tây Sơn), lên vùng An Khê chiêu mộ lực lượng mà đa số là người Thượng, mưu việc phục thù. Ít lâu sau, người Thượng bị nhà Nguyễn mua chuộc, dự mưu làm phản, Võ tướng quân phải bỏ hết cơ sở đem ba chú cháu Văn Ðức, Văn Lương và Văn Ðẩu lên ẩn náu tận Núi Xanh. (Văn Ðức, Văn Lương là con của vua Thái Ðức Nguyễn Nhạc, còn Văn Ðẩu là con của Nguyễn Bảo).
Năm Minh Mạng thứ 12 (1832), thấy tình thế đã yên, ba chú cháu đó đưa nhau về thăm quê cũ ở Kiên Mỹ. Quân nhà Nguyễn được bọn bất lương mật báo, đến vây bắt cả ba, giải về Phú Xuân giết chết.
Còn trơ trọi một mình, Võ Văn Dũng vẫn sống tự tại suốt mười năm nữa. Tướng công mất dưới triều Thiệu Trị, không rõ năm nào, sống trên chín mươi tuổi. Mãi đến khoảng Ðống Khánh - Thành Thái (1885-1907), con cháu mới lấy cốt đem về mai táng ở Phú Mỹ - Phú Phong.
Nhà Nguyễn gia miêu đối với nhà Tây Sơn vô cùng khắc nghiệt. Ðể tránh nạn tru di, con cháu những người liên hệ ít nhiều đến nhà Tây Sơn phần nhiều đều phải thay tên, đổi họ, ẩn náu nơi xa lạ. Những tập gia phả của họ Võ ở Phú Phong, họ Bùi ở Xuân Hoà, họ Trần ở Trương Ðịnh, cùng các sách vở, giấy tờ khác đều bị thiêu hủy. Trước năm 1975, Từ đường họ Võ còn được duy tu ở thôn Phú Mỹ, xã Bình Phú, huyện Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn) tỉnh Bình Ðịnh. Hằng năm có ngày giỗ tướng công Võ Văn Dũng. Ðể tưởng nhớ một bậc tuấn kiệt, con đường từ thị trấn Phú Phong đến thôn Phú Mỹ (non 5 cây số) được mang tên VÕ VĂN DŨNG.
PHẠM ÐÌNH TÒNG
Giai Phẩm TÂY SƠN Xuân Canh Thìn 2000