.

BÌNH ÐỊNH

Thi 
Văn 
Cổ

.

ÐÀO TẤN

LTS: Ðây là hai bài từ hay nhất của cụ Ðào, bài trước nói đến "Tình nhà", bài sau nói đến "Nỗi nước". Hai bài Từ ấy đã được nhiều nhà thơ, nhà văn ở Bình định dịch ra với đủ thể loại, như dịch theo nguyên điệu, dịch theo lục bát, Ðường luật hợp thể v.v... Ðặc biệt Tác giả và Dịch giả đều là người Bình định.

ÐÀO ÐỨC CHƯƠNG


BỒ TÁT MAN (1)

Lang tình thu hậu tiêu sơ diệp
Thiếp tâm mạch thượng du dương điệp
Hà xứ vọng qui an?
Xuân vân san ngoại san
Lê hoa tân nguyệt hạ
Ðộc tự thiêu hương bãi
Duy hữu mộng tương tầm
Kinh ô đề dạ thâm!

ÐÀO TẤN


DỊCH THEO NGUYÊN ÐIỆU 

Tình chàng lá rải sau thu úa
Lòng thiếp bướm lượn theo đường cỏ
Yên ngựa trở về chăng?
Núi ngoài núi mây giăng
Hoa lê dưới trăng mới
Hương đốt ngồi nhìn khói
Chỉ trong mộng tìm nhau
Hoảng hốt quạ khuya kêu

XUÂN DIỆU

Tình chàng lá rã rời thu úa
Lòng thiếp bướm đong đưa ngọn lúa
Quay yên ngóng về chăng?
Mây xuân núi tiếp giăng
Hoa lê mòn trăng dõi
Hương đốt gầy một cõi
Chỉ còn mộng tìm nhau
Quạ hoảng rúc đêm sâu

MAI KHÊ


BẢN DỊCH THEO ÐIỆU LỤC BÁT

Tình anh lá úa thu tàn
Lòng em cánh bướm đầu đàng nhởn nhơ
Nơi nao yên ngựa ngóng chờ
Mây xuân núi dựng ngoài bờ núi xa
Hoa lê nở dưới trăng tà
Một mình hương lửa nhạt nhòa phai mau
Chỉ còn trong mộng tìm nhau
Giật mình tiếng quạ đêm thâu hãi hùng

MỘNG BÌNH SƠN

Tình anh héo úa lá vàng
Bướm vòng bờ ruộng ý nàng nhởn nhơ
Người đi yên ngựa mong chờ
Núi liên tiếp núi mây mờ xuân giăng
Hoa lê vừa nở ánh trăng
Ðốt trầm có kẻ bâng khuâng một mình
Tìm nhau trao gởi chút tình
Sợ đêm tiếng quạ làm kinh mộng hồn

LAM GIANG

Tình anh chiếc lá cuối thu
Lòng em lối nhỏ bướm ru lượn vòng
Ngựa về, biết hướng nào trông
Mây xuân dựng núi chập chùng núi non
Hoa lê trăng mới nụ còn
Một mình mình đốt đâu giòn lửa hương
Chỉ còn trông mộng trao thương
Ðêm khuya tiếng quạ kêu sương, giật mình.

VIỆT THAO phụng dịch


THEO THẤT NGÔN BÁT CÚ ÐƯỜNG LUẬT

Tình chàng lặng lẽ lá thu tàn
Lòng thiếp êm đềm bướm lượn ngang
Vó ngựa phương nào mong trở lại
Cảnh xuân mấy núi tiệp mây ngàn
Trăng lên trải sáng hoa lê nở
Ta đốt hương thơm tỏa ngát tràn
Chỉ có ưu tư vương lối mộng
Ðêm thâu tiếng quạ dấy kinh hoàng

Ngoại tôn kính tạm dịch
MINH TÂN - PHẠM HÀ HẢI


.


BỒ TÁT MAN (2)

Khứ niên bất tỷ tiền niên hảo
Kim niên cánh tỷ khứ niên lão
Vị lão thử hùng tâm
Âm u quốc nạn thâm
Cửu biên phong hỏa cấp
Nhất phái thừa bình ý
Bất tất vấn mai hoa
Hàn chi tận mộ nha 

ÐÀO TẤN


DỊCH THEO NGUYÊN ÐIỆU

Năm qua chẳng khoẻ bằng xưa được
Năm nay lại dở hơn năm trước
Chưa dở ấy tấm lòng
Hằng lo nạn núi sông
Ôi tư bề khói lửa
Lại phải cầu hoà nữa
Khỏi phải hỏi hoa mai
Cành rụi quạ đậu đầy

MỊCH QUANG VŨ NGỌC LIÊN


Năm qua chẳng khoẻ bằng xưa được
Năm nay lại yếu hơn năm trước
Chưa yếu ấy lòng son
Thêm lo nạn nước non
Chín bề vầy rực lửa
Một phía theo hòa nữa
Khỏi phải hỏi hoa mai
Cành băng chiều quạ đầy

MAI KHÊ


DỊCH THEO THỂ LỤC BÁT

Năm qua chẳng khoẻ bằng xưa
Nay so năm ngoái già nua sức mòn
Chưa già nhiệt huyết hãy còn
Mãi lo nạn nước đắm vòng điêu linh
Chín bề lửa báo chiến chinh
Một phe vẫn cứ ý xin nghị hòa
Cần gì phải hỏi mai hoa
Cành trơ quạ đậu chiều tà lạnh hoang

VIỆT THAO phụng dịch


DỊCH THEO SONG THẤT LỤC BÁT

Năm trước tốt năm qua khó sánh
Với năm này so trước già thêm
Người hùng, lẽ phải chưa già
Lo toan việc nước vẫn là in sâu
Chín bề mũi nhọn lửa câu
Lòng ngay, một dõi ngõ hầu lệch sai
Vậy chăng? thầm hỏi hoa mai
Nhánh chiều khép lạnh để hoài con đen

THẠCH KHÊ


DỊCH THEO NGŨ NGÔN ÐƯỜNG LUẬT

Tuổi già theo tháng năm
Sức khoẻ lại vơi dần
Giữa lúc nước non gọi
Chín phương khói lửa tràn
Tim này như bỏng cháy
Ý nọ muốn cầu nan
Mai nở không buồn hỏi
Cây chiều lạnh quạ than

MẶC VI NHÂN


PHỎNG DỊCH THEO THẤT NGÔN BÁT CÚ ÐƯỜNG LUẬT

Cuốn theo ngày tháng tim mòn mỏi
Mà nhịp tim đời vẫn thiết tha
Thương nước gặp hồi sinh nhiễu loạn
Có người ươm mộng sống chung hoà
Chìm trong lửa chiến niềm đau dậy
Chảy dọc bờ mi giọt lệ sa
Ðể mặc mai buồn rơi cuối ngõ
Ngẩn ngơ đàn quạ lạnh chiều xa

SONG NGUYÊN 

Ðặc san QUANG TRUNG TÂY SƠN Xuân Bính Tý 1996

.


VIỄN VỌNG THIÊN THAI

Lưu lạc giang hồ kỷ độ xuân
Ai tai văn bút lão phong trần
Anh niên phấn dũng đăng biên tái
Dạ nguyệt cao đàm thức đạt nhân
Hoa lý kiều trang thùy khả ái
Kính tiền bạch phát ngã ưng lân
Thiên nhai viễn vọng dao tương ức
Hùng khí Tây Sơn nhập mộng Tần

LAM GIANG

Tự dịch:

Mấy năm sống gởi quê người
Văn chương trót đã nửa đời lưu ly
Xưa từng hướng nghĩa ra đi
Bừng sôi nhuệ khí biên thùy xa xa...
Bâng khuâng nửa mái trăng tà
Cùng ai tâm sự xưng là đạt nhân
Bóng kiều hiện giữa hoa xuân
Soi gương tóc trắng thêm phần buồn lo
Nhớ nhau trông hướng mây mờ
Tây Sơn Hùng Khí giấc mơ chưa tàn

(Thơ Hùng Việt)
LAM GIANG
Ðặc san QUANG TRUNG Xuân Canh Thìn 2000
 


.


TỊCH DƯƠNG HOÀI NHÂN

Dục bả thi hoài ký Ðức Chương
Sổ trùng vân thủy cách song phương
Tự tùng biệt hậu thanh thu dạ
Ðãi nguyệt tây hiên thuyết Thịnh Ðường

LAM GIANG

Tạm dịch nghĩa:

Muốn đem nỗi nhớ vào thơ gửi Ðức Chương
Hai bên đều cách xa nhau mấy trùng mây nước
Từ khi chia ly đến giờ (gặp) đêm thu trong sáng
Chỉ ở bên hiên tây đợi trăng nói chuyện thơ thời Thịnh Ðường.

Tạm dịch thơ:

CHIỀU HÔM NHỚ NGƯỜI
VIỆT THAO dịch

Ðem nhớ vào thơ gửi Ðức Chương
Ðôi bờ mây nước ngút ngàn thương
Từ khi xa cách, đêm thu sáng
Ðợi nguyệt hiên tây nói chuyện Ðường.

Giai Phẩm TÂY SƠN Xuân Ất Hợi 1995
 


.

 


THANH MINH  

Nam Bắc sơn đầu đa mộ điền 
Thanh minh tế tảo các phân nhiên 
Chỉ khôi phi tác bạch hồ điệp 
Lệ huyết nhiễm thành hồng đỗ quyên 
Nhật lạc hồ ly miên trủng thượng 
Dạ qui nhi nữ tiếu đăng tiền 
Nhân sinh hữu tửu tu đương túy 
Nhất trích hà tằng đáo cửu tuyền 

CAO CÚC KHANH

DỊCH:

Dầu dãi tha ma tựa núi rừng
Tiết xuân ấm lửa ngạt ngào hương
Tro tiền nhuộm trắng hồn Trang Tử
Máu lệ pha hồng xác Thục Vương
Mồ ngả lưng chồn khi nắng tắt
Ðèn khêu chuyện trẻ lúc đêm buông
Men đời nhắp cạn mà say kẻo
Chín suối nào thiêng giọt rượu nồng

Trọng Xuân Ðinh Mão (1987)
SONG NGUYÊN


Nam Bắc chân non nghĩa địa liền
Khói hương tảo mộ tỏa triền miên
Tro tiền bốc trắng mơ hồn bướm
Lệ máu pha hồng ngỡ bóng quyên
Chồn cáo gối mồ khi ác lặn
Vợ con vui chuyện lúc đèn lên
Ở đời có rượu say nên uống
Một giọt làm sao thấm cửu tuyền.

Seattle ngày 12-3-1987
VÂN TRÌNH

Khắp chốn đầu non hàng mộ liền
Thanh minh hương khói tỏa liên miên
Gió bay bụi trắng mờ thân bướm
Máu nhuốm lệ hồng đẫm xác quyên
Nắng tắt cáo chồn nơi ngủ tạm
Ðèn lên con trẻ chuyện thần tiên
Người đời sẵn rượu nên say túy
Một chén đã nào đến cửu tuyền!

HOÀNG DUY

Giai Phẩm TÂY SƠN Xuân Quí Dậu 1993


.

 


LỮ HOÀI XUÂN 

Xuân lai thử địa khách 
Tuyết hoa lạc phân phân 
Mai hoa tầm bất ngộ 
Chỉ hữu lữ hoài xuân 

LAM NGUYÊN


LỮ THỨ NHỚ XUÂN

Xuân về trên đất khách này
Những tràng bông tuyết rơi đầy khắp nơi
Hoa mai khuất bóng đâu rồi?
Lòng người lữ thứ bồi hồi xuân xưa.

TRÚC HIÊN phỏng dịch

Giai Phẩm TÂY SƠN Xuân Canh Thìn 2000