LỄ HỘI NGÀY XUÂN

ÐÀO ÐỨC CHƯƠNG

Ở Bình Ðịnh ngoài lễ hội Tế Ông nhằm mồng 10 tháng năm âm lịch và lễ hội Ðổ Giàn vào rằm tháng 7 hàng năm, các lễ hội khác đều được tổ chức trong mùa xuân, nhiều nhất vào dịp Tết Nguyên đán.

Những ngày cuối năm, 23 và 28 tháng chạp người ta rủ nhau mua sắm ở phiên chợ Tết Gò Chàm, sang ngày mồng 1 và 2 đầu năm dân chúng có lệ xuất hành gặp nhau ở hội tết Chợ Gò, rồi mồng 5 tết hẹn nhau về Phú Phong dự lễ hội Ðống Ða. Sau ngày khai hạ, tại thành Bình Ðịnh có hội Hát Xuân kéo dài hai ngày hai đêm, đến mồng 10 tháng giêng, và mồng 6 tháng 3 có lễ hội Cầu Ngư. Và ngay cả đồng bào Thượng cũng đóng góp mừng xuân với lễ hội Ðâm Trâu được tổ chức hàng năm tại các buôn làng vùng Vĩnh Thạnh (1).

Những lễ hội thường được tổ chức ở miền quê, không một lời quảng cáo hay nhắc nhở thúc dục, nhưng hội nào cũng đông nghẹt người. Dân chúng từ các nơi đổ về, quần áo tươm tất, tấp nập các ngả đường dẫn vào lễ hội bằng đủ loại phương tiện cũng "ngựa xe như nước, áo quần như nêm" (Truyện Kiều, Nguyễn Du). Và với dáng điệu thảnh thơi, mặt mày hớn hở, chứng tỏ "Tháng giêng là tháng ăn chơi" (ca dao). Những gì chật vật trong năm cũ họ tạm quên để nới rộng việc chi tiêu, sắm sửa, đãi đằng vì dù sao quan niệm "có đói cũng ngày Tết, có hết cũng ngày mùa" (tục ngữ) đã ăn sâu vào lối sống của người dân Bình Ðịnh. 

CHỢ TẾT GÒ CHÀM

 Cách thị trấn Bình Ðịnh chừng hai cây số về phía bắc, chợ Gò Chàm tọa lạc trên một khoảnh đất cao, rộng chừng hai mẫu tây, phía bắc giáp sông cầu Chàm, phía tây sát quốc lộ 1. Ngày nay, nơi ấy nhà cửa mọc lên san sát lại có một bệnh xá, không còn dấu vết gì một ngôi chợ lớn nhất tỉnh, nhưng địa giới là cây cầu bắc qua quốc lộ 1 vẫn còn đó và vẫn giữ nguyên cái tên "Cầu Chàm" như thuở nào. Theo các vị bô lão, ngày xưa chợ này tên chữ là Lam Kiều thị, có dựng trụ ngay trước chợ khắc ba chữ ấy và vùng này gọi là xứ Lam Kiều, thời Minh Mạng thuộc làng An Ngãi tổng Thời Ðôn huyện Tuy Viễn phủ An Nhơn. Mang tên xứ Lam Kiều vì xưa kia trồng nhiều cây chàm để nhuộm vải, thế thì đúng ra phải gọi là chợ Cầu Chàm nhưng dân chúng lại quen gọi là chợ Gò Chàm. Bởi đó, có người còn cho rằng chợ được lập trên vùng đất gò có nhiều mồ mả người Chàm nên mới gọi là chợ Gò Chàm.

Năm 1940, chợ Gò Chàm dời vào khu đất phía đông bắc bên ngoài thành Bình Ðịnh, sát với khu phố của thị trấn và đổi danh hiệu là chợ Bình Ðịnh, nhưng dân chúng vẫn quen gọi tên cũ. Chợ mới vẫn giữ vai trò lớn nhất tỉnh, nhóm chợ mỗi ngày và mỗi tháng có sáu phiên vào các ngày mồng 3, 8, 13, 18, 23, 28. Ngoài ra, xưa nay vẫn giữ lệ phiên chợ 23, 28 tháng chạp âm lịch nhóm suốt ngày đêm và đông hơn các phiên chợ khác trong năm.

Phiên chợ tết khác với phiên thường vì có nhiều người đến chợ để dạo chơi, ăn uống, thết đãi bạn bè và càng về đêm người dạo càng đông. Người đi chợ để mua bán cũng tăng lên gấp nhiều lần vì phiên chợ này không thiếu món sơn hào hải vị nào cần mua sắm làm cỗ dọn tết. Họ réo gọi nhau tốp năm tốp ba cùng đến chợ cho vui, trong bài vè chợ Gò Chàm đã diễn tả quang cảnh rộn rịp ấy:

Bớ chị em ơi! Ði chợ
Chợ nào bằng chợ Gò Chàm
Tôm tươi cá trụng thịt bò thịt heo
Còn thêm bánh đúc bánh xèo
Bánh khô bánh nổ bánh bèo liên u
Những con cá chép cá thu
Cá ngừ cá nục cá chù thiệt ngon

Người cần mua sắm quần áo, nữ trang để chưng diện trong dịp tết, đến chợ Gò Chàm tha hồ lựa chọn cho vừa ý:

Những còn hàng giép hàng giày
Nón ngựa nón chóp bán rày liên thiên
Lại còn những món nhiều tiền
Cà rá, hột đá, dây chuyền, dầu thơm...

Chợ Gò Chàm còn có riêng một khu chuyên bán súc vật, quen gọi là chợ Bò. Tuy đặt tên như vậy nhưng người ta đem bán đủ loại gia súc: từ trâu, bò, heo, dê, cừu đến gà vịt, ngỗng, chim chóc... và có cả thú rừng mới vừa săn bắt hay đã thuần hóa; cứ đến chợ Gò Chàm, nhất là phiên chợ tết là có ngay. Một đặc điểm nữa, phiên chợ tết có bán gà thiến, cho thịt thơm ngon mềm và béo, dùng vào việc làm lễ vật rất thông dụng. Dân trong vùng có tục lệ "mồng một tết cha, mồng ba tết thầy" Nào là chàng rể lễ tết cha mẹ vợ, tân gia đi tết thầy địa và thợ cả dựng nhà, tang gia lễ tết thầy liệm, thầy cúng, võ sinh lễ tết sư phụ, học trò lễ tết thầy cô giáo... rầm rộ thành phong trào lễ tết hàng năm.

Trong hai phiên chợ tết Gò Chàm, phiên 23 lớn hơn và vui hơn vì ngày tết tương đối còn xa, đủ thời gian kịp mua kịp bán. Nhiều thương nhân từ các tỉnh khác chở hàng hóa đến bán:

Xem ra chẳng thiếu hàng nào
Quảng Nam, Quảng Ngãi cũng vào cũng vô ...

Có cả những lái buôn từ miền núi chở lâm sản xuống và mua sỉ hàng hóa, thực phẩm ở đồng bằng đem về xứ bán lại kiếm lời:

Buôn mọi bán rợ
Mấy chú An Khê
Ở trển đem về
Xấp trần nài rể

Phiên chợ 23 còn một điểm thuận tiện nữa, vừa lúc các trường thi xong kỳ đệ nhất lục cá nguyệt, chuẩn bị liên hoan, chia tay về nghỉ tết. Những năm cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70, ở thị trấn Bình Ðịnh có ba trường trung học đệ nhị cấp: một công lập, một bán công và một tư thục, có thêm môt trường tiểu học; các thầy cô và học sinh đều rảnh rỗi, họ rủ nhau dạo chợ đêm, mua vài món hàng đặc sản đem về xứ làm quà tết, cả nhân viên của các ngành của quận An Nhơn cũng tham gia. Nhờ thế, chợ tết càng đông đúc khách dạo chen chúc với kẻ bán người mua, suốt đêm dập dìu tấp nập, vui không xiết kể.

Phiên chợ 28, cận ngày tết quá, nhất là những năm gặp phải tháng thiếu (chỉ có 29 ngày) nên vắng khách phương xa nhưng bù lại phiên cuối năm đặc biệt có thêm chợ hoa:

Ðường cát Dương An
Ðĩa bàn nội phủ
Thêm đủ hàng hoa...

Người ta đến xem hoa, mua hoa, nơi hội ngộ của nghệ nhân trong vùng và tao nhân mặc khách. Ở đây có đủ loại hoa kiểng, từ những cội mai núi hình thù kỳ dị đến những cành mai vườn đầy ắp nụ. Chỉ cần mua vài chậu hoa lạ đem về tô điểm cho giàn cây kiểng (2) sẵn có là thấy cảnh nhà hực hở lên rồi.

Sau phiên chợ 28, hầu như trong tỉnh không còn phiên chợ nào đáng kể nữa, dân chúng cũng cần ở nhà lo làm cỗ cúng rước ông bà và chuẩn bị đón giao thừa.

HỘI TẾT CHỢ GÒ 

Người ta quen gọi là Chợ Gò, thật ra chẳng thấy chợ búa đâu cả. Không một túp lều, các ngày trong tháng không thấy một ngày nào nhóm chơ, dù chỉ vài mươi người, mua bán nho nhỏ như chợ xổm cũng không có. Nơi đó chỉ là một bãi đất bằng phẳng, cao ráo, rộng chừng hai mẫu tây, thời Minh Mạng thuộc thôn Phong Ðăng tổng Tuy Hà, huyện Tuy Phước phủ An Nhơn tỉnh Bình Ðịnh, nay là thôn Phong Thạnh thuộc thị trấn Tuy Phước. Nơi đây, địa thế hiểm yếu, phong cảnh lại hữu tình; phía đông và nam có núi Trường Úc ôm choàng, phía tây giáp quốc lộ 1 cũ, phía bắc có nhánh sông Tọc, thuộc nguồn Hà Thanh, chảy qua với bờ cao dốc, có hàng cây san sát lòa xòa soi bóng. Nếu không muốn nói là đất thiêng thì ít ra trên thực tế nơi đây là bãi đất bất khả xâm phạm vì tuy gần khu dân cư đông đúc nhưng xưa nay chưa ai lấn chiếm cất nhà hay trồng tỉa hoa màu.

Tương tuyền thời Tây Sơn, nơi đây dùng làm chỗ tập trận của quân đội. Bộ binh đóng đồn trên núi Trường Úc, thủy quân từ đầm Thị Nại vào cửa Làng Sông rồi ngược dòng sông Tọc đổ bộ lên Trường Úc, hai bên thủy bộ giáp chiến. Ðể khuây khỏa nỗi nhớ nhà trong dịp tết, các tướng Tây Sơn tổ chức cuộc vui ngay trên bãi thao trường vào sáng mồng 1 và mồng 2 tết, nhưng khi trời vừa xế bóng thân nhân phải ra về để binh sĩ chuẩn bị canh phòng nghiêm nhặt về đêm. Vì vậy, hàng năm các gia đình binh sĩ theo lệ đến nơi đây thăm chồng con. Dân địa phương mang hoa quả, thức ăn, nước uống ra bán, lâu năm thành lệ. Khi quân Tây Sơn tan rã, nơi đây trở thành Hội Tết Chợ Gò, mỗi năm chỉ hội hai ngày mồng 1 và mồng 2 tháng giêng và cũng quen lệ tan chợ vào lúc xế trưa.

Chợ Gò có tính cách hội vui xuân dân gian hơn là phiên chợ. Từ người bán đến khách hàng đều mặc quần áo mới, nói cười vui vẻ, mặt tươi như hoa, các bà các cô phấn son trang sức lộng lẫy như dự lễ cưới. Từ mờ sáng ngày đầu năm chợ đã nhóm, ai đến trước bày hàng trước, ai đến sau kế tiếp thành dãy. Không ai đứng ra xếp đặt, tổ chức thế mà vẫn trật tự, không hề tranh giành bán buôn theo lối kẻ chợ thông thường. Người bán là những dân cư quanh vùng thu góp trong vườn mớ trái cây, gánh rau cải, vài buồng cau, vài xấp trầu họ đem đến bán lấy hên đầu năm. Người mua không phải là thiếu thức ăn nhưng muốn đem về một cái lộc đầu năm, nhất là gian hàng trầu cau, các cô thường mua cầu may cho năm mới gặp duyên thắm tình nồng.

Vui vẻ nhất là các gian hàng pháo, bán đủ loại nào pháo tre, pháo tống, pháo điển, pháo chuột, pháo dây, pháo thăng thiên, pháo bông... Ðó đây, giọng lái buông chào hàng ngân nga câu vè (3) theo điệu bài chòi:

Mời chư vị giai nhần tài tử
Tới đây nghe tôi thử pháo tre
Của bán ra không phải nói khoe
Thời thực vật sắm vừa túc dụng
Có pháo nhiều đốt mới vui tình
Từ cựu thời bộc trước nhi thinh
Có pháo mới văn minh xuân nhựt
Dưới con cháu cũng vui cũng ức
Trên ông bà khỏi bực khỏi phiền
Nếu như mà cứ giữ tiếc tiền
Lấy gì đặng minh niên hỉ hả...

Năm mới, người ta kiêng cữ nhất là mua phải pháo điếc, đốt không nổ, gây xui xẻo cho cả năm. Khai thác tâm lý ấy, người bán pháo cao giọng quảng cáo hàng:... 

Mua pháo này về đốt
Vốn tôi không nói tốt
Hay thật tình có một mình tôi
Nhiều người bán xảo làm mồi
Ðốt đây khá về rồi lại dở
Có kẻ làm kêu cũng đỡ
Vấn nhiều tay tôi sợ không đều
Của bán ra là biết bao nhiêu
Một mình vấn nên kêu đều đặn
Mười như chục tiếng kêu đúng đắn
Ðốt cả trăm cũng chẳng điếc câm
Tiếng nổ lên chuyển động sơn lâm
Như đại bác vang gầm trời đất
Hễ đốt thì xác tan bay mất
Không khi nào gió phất ngún hừng
Của tôi làm tôi đã biết chừng
Xin quí vị mua đừng có ngại

Các gian hàng bán đồ chơi trẻ em cũng vui nhộn không kém. Ðặc biệt nhất, những sản phẩm làm bằng vật liệu địa phương, thuần túy Việt Nam như gà cồ chút chít nặn bằng đất sét, rỗng ruột, sơn phết xanh đỏ, có lỗ thổi ra tiếng kêu o... o..; trống rung (trống bỏi) thành và cán bằng tre phất bong bóng heo hay da ếch có tra hai cây đính cục chì nhỏ mỗi lần rung tạo âm thanh thật vui tai: thằng nhào lộ; cối xay lúa; cối giã gạo; tướng quân múa võ đều làm bằng tre và gỗ cây gòn. Từ cuối thập niên 60, có xen những đồ chơi bằng nhựa hoặc bằng kim loại như búp bê, xe tăng, tàu bay, súng lục..., có lẽ vì đắt giá hay chưa quen với thị hiếu nên ít thông dụng.

Những gian hàng thức ăn, nước giải khát cũng góp mặt không kém. Các món đặc sản địa phương được khách hàng ưa thích như nem Chợ Huyện của bảy Ù, chim mía ở Lộc Lễ, rượu nếp và rượu gạo ở Trường Thuế (dân chúng quen gọi là Trường Thế) đã mãi mãi đi vào ca dao của dân tộc:

Rượu ngon Trường Úc mê ly
Gặp nem Chợ Huyện bỏ đi không đành

Ðến với Chợ Gò không những để ăn uống, mua rau quả để lấy lộc, mua pháo để lấy hên đâu năm, hoặc để thưởng thức tài viết chữ "phượng múa rồng bay" trên liễn đối, mà đến với Chợ Gò còn có đủ các trò vui chơi mang màu sắc dân gian như đánh bài chòi, chơi lô tô, giải đáp câu thai, đánh cờ tướng, đá gà... Nếu ai nặng máu đỏ đen thì tha hồ sát phạt ở các sòng bài như xóc dĩa, bầu cua tôm cá, xì lác... nhưng phần lớn họ đến đây để gặp gỡ bạn bè, trao nhau những lời chúc tụng, kéo nhau đi xem chợ và khi mặt trời đứng bóng thì chia tay ra về.

Hội tết Chợ Gò đơn giản chỉ có thế nhưng rất vui, đậm đà tình bạn, tình quê hương; năm nào bận việc không đến được vẫn thấy tiếc. Vì thế, từ sáng sớm đoạn đường quốc lộ 1 cũ từ ngả tư Phủ Mới đến ngả ba Chợ Dinh (khoảng 5 cây số) đông nghệt người đi, xe chở hành khách không thể qua lại được. Muốn đến Chợ Gò phải xuống xe, đi bộ vài cây số, có thể dùng xe đạp hay xe gắn máy đến gần địa điểm, rồi tìm chỗ gửi xe an toàn, mới rảnh tay vào cuộc vui xuân. 

LỄ HỘI ÐỐNG ÐA
Lễ hội Ðống Ða được tổ chức từ năm 1960, địa điểm hành lễ là Ðiện thờ Tam Kiệt Tây Sơn, tại làng Kiên Mỹ (đất Tây Sơn cũ) xã Bình Thành quận Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn) vào ngày mồng 5 tết. Ðây là lễ hội truyền thống lớn nhất tỉnh Bình Ðịnh.

Lần giở lại trang sử oai hùng của dân tộc, cuối năm 1788 vua Kiền Long nhà Thanh sai Tôn Sĩ Nghị đem 20 vạn quân sang chiếm nước ta. Trước khí thế mạnh như vũ bão của giặc, ngày 21 tháng 11 năm Mậu Thân (18-12-1788) Tư mã Ngô Văn Sở nghe theo lời bàn của Ngô Thời Nhậm, cho chuyển quân từ Thăng Long về Tam Ðiệp để bảo toàn lực lượng.

Ngày 24 tháng 11 năm Mậu Thân (21-12-1788) tin cấp báo về tới Phú Xuân thì ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân, Nguyễn Huệ làm lễ đăng quang ở Bàn Sơn (phía nam núi Ngự Bình) và chỉ 4 ngày sau (29 tháng 11) Hoàng đế Quang Trung cùng đại binh đã có mặt tại Nghệ An. Nhà vua cho dừng quân ở đây để tuyển thêm tân binh và hội kiến với La Sơn Phu tử.

Ngày 20 tháng 12 năm Mậu Thân, đại quân đến núi Tam Ðiệp. Quang Trung tuyên bố trước tướng sĩ: "Chỉ nội 10 ngày nữa ta sẽ đuổi hết được giặc Thanh. Bữa nay ta ăn tết Nguyên Ðán trước, sang xuân ta sẽ ăn tết Khai Hạ vào ngày mồng 7 ở Thăng Long" (Việt Sử Tân Biên, quyển 3, trang 431).

Quang Trung chia quân làm ba đạo:

- Ðại đô đốc Lộc và Ðô đốc Tuyết lãnh hữu quân(có sách chép là tả quân) đi đường biển. Ðại đô đốc Lộc theo sông Lục Ðầu tràn lên Bắc Ninh và Bắc giang, Phượng Nhãn chận đường về của giặc. Còn Ðô đốc Tuyết đổ bộ vào Hải Dương tiếp ứng cho mặt trận miền Ðông.

- Ðại đô đốc Bảo và Ðô đốc Long (có sách chép là Mưu) đem tả quân, có tượng và kỵ binh tăng cường, đi bọc đường núi đánh tạt cạnh sườn vào phòng tuyến địch. Ðại đô đốc Bảo mở mặt trận phía tây, dùng tượng binh từ huyện Sơn Minh (phủ U¨ng Thiên, trấn Sơn Nam thượng) đánh vào căn cứ địch ở xã Ðại Án, Nguyệt Án (tổng Vĩnh Hưng, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam thượng). Còn Ðô đốc Long đem tượng binh và kỵ binh đi đường tắt từ huyện Chương Ðức (phủ Ứng Thiên, năm 1814 đổi thành phủ Ứng Hòa) đến huyện Thanh Trì (phủ Thường Tín) hành quân chớp nhoáng từ tây bắc xuống nam, chiếm gọn hai căn cứ Nhân Mục và Yên Quyết, rồi nửa đêm mùng 4 vây kín đồn Khương Thượng. Ðề đốc Sầm Nghi Ðống nhà Thanh chưa kịp xoay trở thì mũi nhọn cảm tử quân đã phá vỡ thành xông vào như nước vỡ bờ. Ðống phải mở đường máu chạy về Thăng Long nhưng khi đến gò Ðống Ða, lại bị một cánh quân của Ðô đốc Long đón sẵn, bí đường hắn phải thắt cổ tự ải.

- Ðạo quân thứ ba do chính Quang Trung thống lĩnh cả ba doanh: Tiền, Trung, Hậu quân; có Tư mã Sở và Nội hầu Lân lãnh Tiền quân làm mũi nhọn tiên phong. Tân binh ở Nghệ An sung vào Trung quân do nhà vua trực tiếp chỉ huy. Hậu quân có Hô Hổ hầu thủ vai đốc chiến và đề phòng địch tập hậu. Ngày 30 tháng chạp, đại quân vượt bến đò Gián Khuất (Ninh Bình), dùng chiến thuật đấm so đũa tức là ngược chiều tiến quân của giặc, chớp nhoáng hạ các đồn Thanh Liên, Nhật Tảo, Phú Xuyên, Hà Hồi, Ngọc Hồi...

Sáng mồng năm Tết, tại cung Tây Long, Tôn Sĩ Nghị đang sốt ruột theo dõi mặt trận phía nam, bỗng nghe tin cấp báo quân của Ðô đốc Long như trên trời giáng xuống, tiến vào cửa Tây với khí thế ngùn ngụt. Nghị hoảng quá, không kịp mặc áo giáp, bỏ cả sắc thư và ấn tín, vội nhảy lên ngựa chưa kịp thắng yên cương, chạy thoát ra thành Thăng Long, vuợt cầu phao qua sông Nhị Hà. Quân Thanh tranh nhau chạy theo, cầu phao bị ứ nghẽn, đứt dây, ném cả xuống sông, chết vô số kể.

Trong lịch sử Việt Nam, nhiều lần đánh đuổi quân ngoại xâm, nhưng chỉ có lần này quét sạch 20 vạn quân Thanh trong 5 ngày và sớm hơn dự định 2 ngày. Trên hết là thiên tài quân sự của Ðại đế Quang Trung. Bên cạnh đó, có ba người góp công đắc lực:

- Một văn thần đầy mưu lược và lòng cả quyết, đã thuyết phục đám võ thần theo chiến lược "Dĩ dật đãi lao", dưỡng lấy cái nhàn cho quân ta để chống lại cái mệt nhọc của giặc, rất hợp ý của Quang Trung. Ðó là Hy Doãn Ngô Thì Nhậm, ngôi sao sáng của sĩ phu Bắc hà.

- Một ẩn sĩ người làng Mật Thôn xã Nguyệt Ao, tổng Lai Thạnh, huyện La Sơn, phủ Ðức Quang, trấn Nghệ An (nay thuộc Hà Tĩnh) đã hiến kế "Quân quý thần tốc" trong chiến dịch đại phá quân Thanh, cũng hợp với ý nhà vua. Ðó là Lam Hồng dị nhân Nguyễn Quang Thiếp (sau bỏ chữ Quang vì kiêng húy, được người đời phong danh hiệu La Sơn Phu Tử.

- Một danh tướng của miền đất võ Bình Ðịnh, với chiến thuật sét đánh ngang tai, uy hiếp tinh thần địch quân đến cùng độ. Chỉ một đêm, Sầm Nghi Ðống sợ quá phải tự tử; chỉ một sáng, dồn Tôn Sĩ Nghị phải chạy trốn một cách nhục nhã. Ðó là Ðô đốc Ðặng Văn Long, tự là Tử Vân, người huyện Tuy Viễn, phủ Qui Nhơn (nay là tỉnh Bình Ðịnh), được người đời phong danh hiệu Ðặng Thiết Tý (cánh tay của họ Ðặng cứng như sắt).

Năm 1802, Gia Long lật đổ được nhà Tây Sơn, ngôi nhà từ đường, nơi ba anh em Tây Sơn chôn nhau cắt rún, bị san bằng; chỉ có cái giếng là di tích còn lại. Sau nhờ sáng kiến của dân làng, ngôi đình Kiên Mỹ được dựng lên trên khu đất ấy. Mặt ngoài, lập đình để thờ thần nhưng trong lòng không ai bảo ai, họ vẫn ngầm hiểu lập ra để thờ Tam Kiệt Tây Sơn; vì mỗi lần tế xuân thu, họ không bao giờ đọc văn tế mà chỉ khấn vái thầm.

Trong thời Việt Minh (1945-1954) đình Kiên Mỹ bị phá hủy. Năm 1960, nhân dân quận Bình Khê góp công của lập đền thờ Tây Sơn trên khu đất ấy. Ðiện thờ có ba gian, gian giữa thờ Quang Trung, gian hai bên thờ vua Thái Ðức và Ðông Ðịnh vương cùng các tướng sĩ. Nơi đây, hàng năm tỉnh Bình Ðịnh tổ chức lễ Ðống Ða, số người trẩy hội lên đến hàng trăm ngàn người. Dân chúng cho rằng, ăn tết mà không biết hội dân gian ở Chợ Gò là điều đáng tiếc, nhưng không đi dự lễ hội Ðống Ða thì coi như năm ấy chưa hưởng trọn hương vị Tết của tỉnh nhà.

Sáng ngày mồng 5 Tết, đoạn quốc lộ 19 từ ngả ba Cầu Gành đến thị trấn Phú Phong, khoảng 50 cây số, đông nghẹt xe cộ. Người ở Tuy Phước, Qui Nhơn lên Cầu Gành bằng hai ngả đường, ngang qua thị trấn Tuy Phước và thị trấn Diêu Trì. Người ở tận đèo Cù Mông, thị trấn Phú Tài và tỉnh Phú Yên theo quốc lộ 1 ra Cầu Gành. Người ở huyện Vân Canh và xã Phước Thành theo liên tỉnh lộ 6 xuống Diêu Trì rồi ra Cầu Gành. Người ở cao nguyên An Túc xuống đèo An Khê rồi theo quốc lộ 19. Người ở huyện Vĩnh Thạnh thì xuôi dòng sông Côn về dự hội. Người ở tận miền bắc tỉnh Bình Ðịnh như các huyện An Lão, Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát cũng theo quốc lộ 1 vào Cầu Gành. Người ở An Nhơn thì từ thị trấn Bình Ðịnh đi đường tắt đến An Thái rồi qua ngả Bình Nghi đến Phú Phong.

Muốn xem trọn vẹn lễ Ðống Ða phải đến điện Tây Sơn từ trưa mùng 4 Tết vì chiều hôm đó các nghi lễ cổ truyền đã được tổ chức. Lễ tế rất long trọng, cả khu vực rộng lớn cờ lọng nghi trượng rợp trời, chiêng trống rền vang, người xem như cảm thấy lòng mình hòa nhập vào hồn thiêng sông núi địa linh nhân kiệt. Tối hôm ấy phải ngủ trọ tại xã Bình Thành hay tốt nhất là tại thôn Kiên Mỹ để sáng sớm hôm sau kịp chen chân đến khu vực hành lễ.

Chương trình ngày mồng 5 tuy có thay đổi hàng năm nhưng các mục chính thì năm nào cũng có: Ðó là bài diễn văn ôn lại lịch sử Tây Sơn với cuộc đại phá quân Thanh, biểu diễn võ thuật, trống trận Tây Sơn và thao diễn trận pháp.

Tiết mục võ thuật Tây Sơn, trong những năm đầu thập niên 70, người ta thường thấy nữ võ sĩ Thanh Tùng, con nhà võ ba đời lừng danh đất Tây Sơn, biểu diễn các bài quyền như Lão Mai Ðộc Thọ hay các bài roi như Tấn Nhất Ô Du, được tán thưởng với biệt danh "Hổ cái Miền Trung".

Tiết mục nhạc võ Tây Sơn là môn nghệ thuật độc đáo của Bình Ðịnh, người biểu diễn vừa phải có tâm hồn nghệ sĩ vừa là bậc võ siêu đẳng và luyện đôi tay thần diệu để tác dụng lên tròng trống, vành trống và thân trống bắng cả hai bàn tay, cổ tay, khuỷu tay, cánh tay, tiếp xúc vào một bộ trống gồm 12 chiếc lớn nhỏ khác nhau, gọi là Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ, tạo nên những âm thanh hùng tráng khác lạ, khiến người xem như bị lôi cuốn, thúc dục.

Tiết mục biểu diễn chiến trận Ðống Ða lại càng hào hứng và hấp dẫn hơn nữa, được tổ chức trên địa thế qui mô, dàn dựng công phu, tập dượt chu đáo, có cả ngàn người thao diễn với cờ xí, chiêng trống, sắc phục, đồn lũy y như cảnh thật. Người xem tưởng mình đang sống trong thời đại Tây Sơn, dậy lên lòng tự hào dân tộc và từ đó muốn làm một việc gì để đời cho đất nước, cho quê hương.

Có những năm dân Bình Ðịnh còn được xem lực lượng quân đoàn II biểu diễn, trên trời các phi đoàn oanh kích, duới đất có bộ binh tiến chiếm mục tiêu, với xe tăng và pháo binh yểm trợ rầm rộ. Người xem được ôn cố tri tân, vừa ngưỡng mộ kỳ tích của tiền nhân vừa hài lòng với thành quả hôm nay, làm nức lòng tuổi trẻ.

Lễ hội được tổ chức trong tỉnh Bình Ðịnh, nhưng lại là tầm cỡ quốc gia vì có đông quan khách cấp trung ương của các ngành hành chánh, quân sự, văn hóa, giáo dục và các nhà trí thức từ Sài Gòn ra dự. 

HỘI HÁT XUÂN

Hội Hát Xuân có từ lâu, có lẽ phát xuất từ lúc tỉnh thành Bình Ðịnh được xây dựng năm Mậu Thìn (1808), Gia Long thứ 7, khi khánh thành có hát mừng và từ ấy năm nào cũng tổ chức, lâu năm thành lệ.

Hàng năm, sau tết Nguyên đán, trong tháng giêng âm lịch có lệ hát bội tại Bình Ðịnh, quen gọi là Hát Xuân, do quan đầu tỉnh tổ chức, đám hát này lớn nhất, được tổ chức chu đáo nhất, diễn xuất hay nhất và khán giả cũng đông đảo nhất , so với các cuộc hát xướng trong năm ấy tại tỉnh nhà.

Con hát được lựa chọn, toàn đào kép thượng thặng, rút ra từ các gánh hát trong tỉnh, nên gọi là "hát rút". Hát Xuân cũng chỉ diễn lại các tuồng nổi tiếng như "Sơn Hậu, Phụng Nghi Ðình, Ngũ Hổ Bình Tây, Hộ Sanh Ðàn, Diễn Võ Ðình, Tân Dã Ðốn, Tam Nữ Ðồ Vương..." nhưng rất hấp dẫn vì đào kép xuất sắc đảm nhận từ vai chính đến các vai phụ, nên diễn xuất hoàn hảo từ đầu tới cuối.

Mặc dù sân khấu đặt trong sảnh đường rộng lớn, nhưng quan lại và dân chúng từ các nơi đổ về đông nghẹt, phải cất nhà tạm bằng tranh tre để dung nạp quan khách có chỗ ăn uống và nghỉ ngơi. Tuy là nhà tạm nhưng cũng xén cắt mái tranh ngay thẳng, trần thiết kỹ lưỡng, cũng trướng rũ màn che, liễn hoành rực rỡ.

Tỉnh có đội lính dàn chào để đón quan khách, cờ lọng rợp trời, gươm tuốt trần, súng cầm tay trông thật long trọng. Ngày khai mạc có đủ mặt các quan lớn nhỏ trong tỉnh và có nhiều đại biểu từ các tỉnh khác đến dự. Hàng ghế đầu, ngồi giữa là quan Tổng Ðốc, bên tả có quan Bố Chánh, bên hữu có quan Án Sát, ngoài ra còn có các vị thượng khách, các quan đại thần về hưu. Thường thì quan đầu tỉnh lãnh vinh dự cầm chầu điều khiển cuộc hát, tuy nhiên cũng có khi nhường lại roi chầu cho một vị quan khác vì không rành hát bội. Các hàng ghế kế tiếp lần lượt dành cho các tri phủ, tri huyện, các quan hưu trí, thân hào nhân sĩ, các viên thơ lại, rồi đến Chánh, Phó tổng, các chức sắc làng xã, sau cùng là dân chúng đứng xem trong trật tự, yên lặng. Mọi người từ già trẻ lớn bé đều phải mặc áo dài, sang thì bận áo cặp trong trắng ngoài đen, hèn thì cũng phải áo đơn, đàn ông đội khăn đóng, đàn bà chít khăn hay đội nón.

Ðám hát kéo dài suốt hai ngày hai đêm, diễn hết tuồng này đến tuồng khác, đào kép thay phiên nhau trình diễn liên tục. Sáng bắt đầu từ 7 giờ đến 11 giờ, chiều hát từ 1 giờ đến 5 giờ, tối tiếp tục từ 7 giờ đến quá nửa đêm và phải trình diễn cho hết tuồng mới thôi. Ban ẩm thực làm việc suốt ngày đêm, sẵn sàng cỗ bàn, mỗi ngày ba bữa chu đáo. Bò, heo, dê, gà vịt nhốt sẵn, cần thì đem ra xẻ thịt ngay.

Gánh hát nào có nhiều đào kép được quan tỉnh chọn vào đám Hát Xuân thì được nổi tiếng. Riêng cá nhân của diễn viên cũng có nhiều quyền lợi, được các quan thưởng tiền trong những pha độc đáo, nếu rất xuất sắc được xét ban cho phẩm hàm trong làng nghệ sĩ như chức danh Chánh ca (hàm Chánh Cửu phẩm rồi lên Tùng Bát phẩm), Phó Chánh ca, Quản ca... vì thế, các diễn viên thi nhau trổ tài, đem hết ngón nghề ra cống hiến.

Năm 1934, dinh quan tỉnh dời về Qui Nhơn, thành Bình Ðịnh giao lại cho quan Phủ, tuy nhiên hàng năm quan Tổng đốc vẫn về đây chủ trì việc Hát Xuân. Lần hát cuối cùng vào xuân Ất Dậu (1945), sau đó là thời kỳ Việt Minh, thành Bình Ðịnh bị san bằng và Hội Hát Xuân cũng chấm dứt vĩnh viễn. 

LỄ HỘI CẦU NGƯ

Cầu Ngư là lễ hội hàng năm của dân chài chuyên nghề đánh bắt cá biển. Làng Xương Lý, quen gọi là Vũng Nồm (4) tổ chúc lễ vào mồng 10 tháng giêng âm lịch, còn làng Hưng Lương (4) quen gọi là Vũng Bấc lại chọn ngày mồng 6 tháng 3 âm lịch và đây là lễ hội lớn nhất trong năm của hai làng này.

Buổi chiều trước ngày hành lễ, tất cả dân chài, chỉ trừ phự nữ đang có kinh nguyệt không được bén mảng đến, còn bao nhiêu đều phải có mặt tại lăng thờ ông Nam Hải (cá voi) và đợi quá nửa đêm, cuối giờ Tí đầu giờ Sửu (1 giờ sáng) mới cữ hành lễ.

Ban tế lễ gồm vị chánh tế đứng giữa chiếu tế trực diện với chánh điện, vị bồi tế đứng sau các một bước sải chân (khoảng 1 mét). Ngoài ra còn bốn học trò gia lễ mang trống chiến (mặt trống gần bằng trống chầu nhưng thân trống ngắn bằng một phần ba), từng cặp đối xứng đứng hầu hai bên án trong và hai bên tiến đường. Ban nhã nhạc gồm một người đánh trống chầu đứng bên tả và một người đánh chiêng đứng bên hữu sân tế.

Lễ vật gồm có bò, heo. Các con vật chịu lễ bị trói chặt, tắm rửa sạch sẽ, đật nằm trên sạp trước sân tế.

Ðứng đầu ban tổ chức là vị hương lễ tuyên bố khai mạc, tức thì ba hồi chín tiếng trống chầu gióng lên rồi đến ba hồi chín tiếng chiêng vang dậy. Trên bàn thờ hương trầm nghi ngút, tăng thêm vẻ uy nghiêm. Bốn học trò gia lễ vừa đi vừa đánh nhịp trống, từ từ tiến vào vị trí đã định sẵn. Rồi đến hai vị chánh tế và bồi tế, mặc áo rộng xanh, đội mũ lễ, đi giày hia, hai tay chắp lại, cung kính tiến vào chiếu tế trước chánh điện, theo nhịp trống của bốn học trò lễ.

Các đồ tể mặc áo gọn gàng, buộc thắt lưng đỏ, cầm dao phang bén nhọn, đứng bên sạp đợi lệnh. Một lần nữa ức và cổ con vật chịu lễ được chùi sạch bằng khăn ướt và lau lại bằng khăn khô, rối cắt tiết, máu tươi được hứng vào thau sạch, đem dâng tế Thủy thần.

Bốn học trò gia lễ đồng loạt xướng hưng, bái. Khi xướng "hưng" thì hai vị chánh tế bồi tế đứng thẳng người, chắp tay trước ngực. Khi xướng "bái" thì cả hai qùy xuống, đầu cúi sát cho trán chạm đất. Lạy đúng ba lần, học trò lễ xướng "hưng, bình thân".

Xong tiết mục lễ bái, vị Hương lễ đọc văn tế với đại ý cầu xin thủy thần Ðông Hải phò hộ cho trời yên bể lặng, năm mới được mùa cá. Sau đó, màn hát bả trạo (hát có cầm mái chèo) tượng trưng cho con thuyền ra khơi đánh cá. Ðây là loại dân ca nghi lễ ở vùng ven biển miền nam Trung Việt, trình bày hoạt cảnh bơi thuyền qua nghệ thuật diễn tuồng. Diễn viên toàn là đàn ông, vừa hát vừa múa nhịp nhàng theo động tác chèo lái. Ðội hình hát bả trạo gồm một Tổng tiền (tức Tổng mũi) đứng trước, tiếp theo có 8 hay 12 hoặc 16 con trạo (tức bạn chèo) xếp thành hai hàng dọc, một Tổng thương (tức Tổng khoang) đứng giữa hàng bạn chèo và sau cùng là Tổng hậu (tức Tổng lái). Về trang phục và trang cụ, Tổng mũi và Tổng lái mặc lễ phục cổ truyền nhưng Tổng mũi hóa trang rực rỡ, nai nịt oai vệ như một vị tướng, tay cầm cặp sênh, mặt quay về phía bạn chèo, gõ nhịp điều khiển; còn Tổng lái tay cầm chèo dài khoảng 2 mét, múa động tác lái thuyền. Các bạn chèo đồng phục trắng, đầu chít khăn, thắt lưng đỏ, chân đi bít tất có quấn xà cạp, tay cầm mái chèo ngắn độ 1,2 mét múa động tác chèo thuyền. Về nghệ thuật, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa âm nhạc, lời ca và động tác. Về nhạc cụ, ngoài cặp sênh của Tổng mũi còn có đàn cò, trống kèn đệm âm. Về diễn xuất, Tổng mũi phải là một nghệ sĩ biết đủ các làn điệu dân gian từ ca, ngâm, lý, hát bài chòi, phú, hò đến các làn điệu hát tuồng như nói lối, tán, oán, thán, xướng, hát nam...

Xong màn hát bả trạo, đến lượt hát bội, hát đến sáng. Vì hát lễ nên phải chọn tuồng cho hợp với sự cung nghiêm như Hoa Dung Lộ (Quan Công tha Tào Tháo), Cổ Thành (Quan Công quá quan)...

Tiếp sau đêm tế ở lăng ông Nam Hải, dân làng còn tổ chức hát bội ba đêm liền nhưng dời sân khấu ra bãi cát rộng bên ngoài lăng cho mọi người xem, tránh sự xâm nhập tà tạp, mang ô uế đến nơi thờ phượng. 

LỄ HỘI ÐÂM TRÂU

Theo tài liệu thống kê và nhân chứng , đồng bào Bania (Bahnar, Bana) hiện nay có 136.859 người ở rải từ Kontum, Pleiku, An Túc và phía tây hai tỉnh Bình Ðịnh, Phú Bổn (nay thuộc Phú Yên). Dân tộc thiểu số Bana có bảy chi nhánh nhưng chỉ có ba nhánh: Alakông, Tơ lô và Bơ Nam (B.Mơ Nam) là tập trung ở An Túc, dọc biên giới phía tây tỉnh Bình Ðịnh và đông đảo ở huyện Vĩnh Thạnh (1).

Hàng năm, từ tháng chạp đến tháng ba âm lịch, dân tộc Bana theo truyền thống mở lễ hội tạ ơn Giàng (Yang) là đấng thần linh tối cao của họ. Người Bana gọi lễ ấy là Koh Kpô hay Groong Kpô Tonơi, tiếng Việt gọi là Lễ Hội Ðâm Trâu.

Theo Ðặc san Văn hóa Bình Ðịnh (ấn hành tại Qui Nhơn, 1992) và các tài liệu khác, già làng chọn bãi đất rộng, bằng phẳng thuộc địa phận buôn làng mình để dựng giàn tế (gưng) là một quân thể gồm: Một cây tre cao, thẳng, còn nguyên ngọn, gốc được chôn vững vàng gọi là nêu, sát bên cây nêu là một cột lớn rắn chắc bằng cây muôn hay cây plang, cũng được chôn chặt để đỡ cây nêu và dùng vào việc buộc trâu; nhưng nếu chọn được cây săn thẳng, đủ vững chắc để làm nêu thì không cần trụ buộc trâu nữa. Và quanh cây nêu còn trồng 4 hay 8 trụ gỗ tròn, cao độ 3 mét, đường kính khoảng 15cm. Các trụ gỗ này được bố trí theo hình hoa thị đối xứng từng cặp và trang trí thành những vành khuyên sơn màu đen, trắng, xanh, đỏ xen kẽ nhau. Ở đầu các trụ gỗ có các thanh ngang buộc nối hai trụ lại với nhau, cấu kết theo thế liên hoàn vững chắc. Dọc theo chân cây nêu có các dây buông dài, tết bằng lạt tre buộc những tấm nan hình tam giác và các ống tiêu gió bằng cây lồ ô đưa vi vu trước gió. Trên cùng cây nêu có treo túi thiêng, tiếp theo là cánh phướng đan bằng lạt giang, biểu tượng cho chim đại bàng (kring), hình ảnh của sức mạnh và trí tuệ (5).

Lễ hội Ðâm Trâu được tổ chức trong ba ngày, hai ngày đầu tại giàn tế (gưng), ngày cuối ở sân Nhà Làng (nhà Rông). Ngày thứ nhất, người ta dắt một con trâu to béo, đầy sức lực đến giàn tế, nối cổ trâu vào cột tế (Plang Kpô) bằng một dây thừng bện thật chắc, dài độ 2 mét tây. Dân trong buôn và người xem đứng bao quanh giàn tế thành một vòng tròn rộng.

Giờ hành lễ bắt đầu, dàn cồng rộn rã nổi lên chen lẫn âm thanh của bộ chiêng rền vang, kết hợp với bộ trống lớn (Bnưng) dồn dập, dậy lên bản giao hưởng hùng tráng như tiếng gọi từ hồn thiêng ngày hội.

Các thanh niên nam nữ xếp hàng dọc, tay cầm gậy múa Kơ tếch (điệu múa dành riêng cho lễ hội Ðâm Trâu), đi vòng quanh giàn tế theo chiều ngược kim đồng hồ, vị tù trưởng đứng vai chủ tế dẫn đầu các vị bô lão (chừng 5, 6 người), mặc lễ phục sặc sỡ từ từ tiến đến giàn tế, quỳ rạo khấn vái thần Giàng (Yang). Tiếp theo bài khấn là lễ Hiến tế, một bô lão mạnh mẽ nhất trong ban tế lễ, tay cầm giáo, tay cầm khiên bước ra khỏi hàng, lựa thế đâm một nhát vào con vật tế thần. Tuy bị thương nhưng trâu vẫn còn sức mạnh, cố bứt dây chạy thoát nhưng không được, đành chạy vòng quanh giàn tế. Mọi người trong buôn đồng loạt hú lên, rung chuyển cả núi rừng và đi quanh giàn tế đánh cồng, múa hát đến chiều tối mới mãn.

Ngày thứ hai, cả buôn tập trung bao quanh giàn tế để làm lễ hiến sinh. Lần này trai tráng trong buôn vào cuộc. Họ cầm vũ khí và khiên, la hét, dồn đuổi con trâu chạy quanh giàn tế. Họ thi nhau bắn cung, phóng lao, đâm giáo vào con vật tế thần. Lòng dũng cảm và sự khôn khéo của họ được thể hiện qua cách săn đuổi con mồi, và phần thưởng chiến thắng dành cho chàng trai nào lựa được thế, đâm thẳng tim con vật gục xuống chết ngay. Già làng cầm bát đồng hứng máu tươi, hòa với rượu dâng thần linh. Tiếng hú mừng chiến thắng lại một lần nữa vang trời dậy đất.

Trâu được xẻ thịt ngay tại chỗ, chọn thịt ngon và toàn bộ lá gan chia đều cho năm nhóm rồi vảy máu đã hòa rượu, cung kính đật trên bàn thờ thần Giàng. Già làng đứng ra khấn bái. Xong lễ, gan trâu được chia đều cho tất cả trai tráng trong buôn. Họ tin rằng ăn gan đó sẽ tăng cường sức mạnh và lòng dũng cảm vì đã có thần Giàng chứng nhận.

Ngày thứ ba, túi thiêng trên cây nêu được rước về thờ ở nhà Rông, đặt ngay chỗ để vò rượu chính. Già làng làm lễ khấn xong, gọi mọi người đến uống rượu này vì tin rằng ảnh hưởng của túi thiêng đã hòa trong rượu, uống vào sẽ tiêu trừ những rủi ro bệnh tật. Họ còn tổ chức những trò chơi thượng võ ngay trước sân nhà Rông như bắn cung, đấu kiếm, phóng lao, đấu võ... cuộc vui suốt ngày và kéo dài đến thâu đêm suốt sáng.

Lễ hội ngày xuân ở Bình Ðịnh còn nhiều lắm, vì bài viết giới hạn trong khuôn khổ trang báo, không thể nêu lên hết được. Ngày nay, các lễ hội như Chợ Tết Gò Chàm, Hội Tết Chợ Gò, Lễ Hội Ðống Ða vẫn còn đó, tuy có thay đổi ít nhiều cho phù hợp với hoàn cảnh của mỗi thời đại. Hội Hát Xuân đã tắt lịm từ lâu, nhưng dân chúng vẫn còn nuối tiếc. Mỗi dịp xuân về, ở một vài nơi còn gắng gượng tổ chưc đám hát nho nhỏ tại địa phương. Dĩ nhiên không thể nào có được cái huy hoàng ngày cũ và cũng không thể giữ lệ đều đặn hàng năm. Lễ Hội Cầu Ngư tuy vẫn còn nhưng thu gọn lại nhiều, màn diễn bả trạo đã vắng bóng, còn hát bội thì năm có năm không, lệ cắt tiết các con vật trước sân tế đã bỏ hẳn vì không ai muốn đem vào cuộc vui cảnh lưu huyết thương tâm.

Còn Lễ Hội Ðâm Trâu của người Bana đã rút ngắn còn một ngày đêm, con vật chịu lễ được các tay thiện nghệ nhanh chóng đâm chết, không còn cảnh săn đuổi kéo dài sự hãi hùng đau đớn và người dự lễ hội đỡ bị căng thẳng thần kinh vì thương cảm. 

ÐÀO ÐỨC CHƯƠNG
Ðặc san QUANG TRUNG & TÂY SƠN Xuân Canh Thìn 2000